ng Việt rồi tiến đến đọc hiểu văn bản và thể hiện bằng bước cuối cùng là đọc diễn cảm văn bản. Môn Tiếng Việt ở trường Tiểu học có nhiệm vụ hình thành năng lực hoạt động ngôn ngữ cho học sinh. Năng lực hoạt động ngôn ngữ đựơc thể hiện trong 4 dạng hoạt động tương ứng với chúng là 4 kĩ năng: nghe, nói, đọc, viết. Tập đọc là một phân môn có vị trí quan trọng trong chương trình Tiếng Việt vì nó đảm nhiệm việc hình thành và phát triển cho học sinh kĩ năng đọc - một kĩ năng quan trọng hàng đầu của học sinh ở bậc học đầu tiên này. Những kinh nghiệm của đời sống, những thành tựu văn hóa khoa học, những tư tưởng tình cảm của các thế hệ trước và của cả những người đương thời phần lớn đã đựơc ghi lại bằng chữ viết. Nếu không biết đọc thì con người không thể tiếp thu nền văn minh của loài người, không thể sống một cuộc sống bình thường đúng nghĩa trong xã hội hiện đại. Biết đọc, con người đã nhân khả năng tiếp nhận lên nhiều lần, biết tìm hiểu đánh giá cuộc sống, nhận thức các mối quan hệ tự nhiên, quan hệ xã hội, tư duy; chế ngự một phương tiện văn hoá cơ bản giúp họ giao tiếp được với thế giới bên ngoài, thông hiểu tư tưởng, tình cảm của người khác. Đặc biệt khi đọc các tác phẩm văn chương con người không chỉ được thức tỉnh về nhận thức mà còn rung động tình cảm, nảy nở những ước mơ tốt đẹp khơi dậy năng lực hành động, sức mạnh sáng tạo cũng như được bồi dưỡng tâm hồn. Những năm gần đây, mặc dù đã có nhiều cải cách chỉnh lí sách giáo khoa và đổi mới phương pháp dạy học phân môn Tập đọc nhưng thực tế ở một số trường học Tiểu học, việc dạy tập đọc vẫn còn nhiều hạn chế, nhất là việc rèn đọc diễn cảm cho học sinh. Trong các trường Tiểu học ở thành phố nói chung và trường Tiểu học Hữu Nghị nói riêng nhìn chung đều có đội ngũ giáo viên giàu kinh nghiệm và chuyên môn nghiệp vụ vững vàng, bên cạnh đó là những giáo viên trẻ nhiệt tình ham học hỏi. Học sinh phần lớn có tinh thần học tập, ham hiểu biết. Tuy vậy, năng lực học tập và khả năng nhận thức của các em có khác nhau, khả năng đọc diễn cảm của các em cũng khác nhau. Việc đọc diễn cảm của học sinh so với yêu cầu là chưa đáp ứng được. Đa số các em mới chỉ dừng lại ở việc đọc đúng, đọc to, rõ ràng mạch lạc, số các em đọc diễn cảm chưa tốt, chưa đạt được yêu 1 TIEU LUAN MOI download : skknchat123@gmail.com cầu đề ra. Về phía giáo viên cũng chưa thực sự chú trọng đến việc rèn đọc diễn cảm cho học sinh, trong một tiết tập đọc, thời gian dành cho luyện đọc vỡ, tìm hiểu nội dung văn bản thường quá nhiều, do vậy sang phần đọc diễn cảm chỉ đọc lướt qua. Làm thế nào để học sinh có khả năng đọc diễn cảm tốt trong giờ tập đọc để từ đó phát triển năng lực cảm thụ văn học cho học sinh, các em thấy được cái hay cái đẹp của văn học, của cuộc sống xung quanh. đó là điều trăn trở và là niềm say mê nghiên cứu của nhiều thế hệ giáo viên. Xuất phát từ những lý do trên, tôi đã mạnh dạn chọn và nghiên cứu đề tài: “Một số biện pháp rèn đọc diễn cảm cho học sinh lớp 5”. 2. Mục đích, phạm vi và thời gian nghiên cứu 2.1. Mục đích nghiên cứu Ở đề tài này tôi đi sâu vào nghiên cứu tìm hiểu việc dạy và học phân môn Tập đọc ở trường Tiểu học Hữu Nghị, trao đổi với giáo viên, học sinh, phụ huynh để chuyên sâu nghiên cứu vấn đề rèn đọc diễn cảm. Xác định một số nguyên nhân chủ yếu, từ đó tìm ra những biện pháp hữu hiệu trong khâu soạn giảng phân môn Tập đọc lớp 5 nhằm nâng cao hiệu quả giờ dạy. 2.2. Phạm vi nghiên cứu: Tại lớp 5A2 - Trường Tiểu học Hữu Nghị Thành phố Hạ Long - Tỉnh Quảng Ninh. 2.3. Thời gian nghiên cứu: Từ tháng 8 năm 2017 đến tháng 4 năm 2018 3. Phương pháp nghiên cứu Trong quá trình nghiên cứu, tôi đã sử dụng các nhóm phương pháp sau: - Nhóm phương pháp nghiên cứu lí thuyết: phân tích và tổng hợp lí thuyết. - Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn: điều tra, so sánh, quan sát, thuyết phục, nghiên cứu và tổng kết kinh nghiệm; thực nghiệm giáo dục, nghiên cứu tài liệu và sản phẩm hoạt động sư phạm. 2 TIEU LUAN MOI download : skknchat123@gmail.com Phần thứ hai: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ 1. Cơ sở lí luận 1.1. Nội dung chương trình sách giáo khoa phân môn Tập đọc Qua nghiên cứu thống kê chương trình của phân môn Tập đọc lớp 5, cả năm học gồm 35 tuần, mỗi tuần 2 tiết, thời gian học là 40 phút/tiết. Như vậy, tổng số tiết học trong một năm là 62 tiết và 4 tuần dành cho ôn tập và kiểm tra. + Học kì 1: 18 tuần + Học kì 2: 17 tuần 1.2. Nghiên cứu sách giáo khoa - Sách giáo khoa Tiếng Việt 5 được nhà xuất bản Giáo dục in thành 2 tập, mỗi tập được dùng trong một học kì: + Tập I: 18 tuần: Có 24 bài tập đọc, có 8 bài tập đọc học thuộc lòng. + Tập II: 17 tuần: Có 23 bài tập đọc, có 7 bài tập đọc học thuộc lòng. - Dựa vào nội dung chương trình của phân môn Tập đọc lớp 5, qua việc nghiên cứu sách giáo khoa Tiếng Việt 5, tôi nhận thấy bài tập đọc nào cũng được cấu tạo theo cấu trúc chung gồm 3 phần: Phần 1: Bài đọc Phần 2: Chú thích Phần 3: Hệ thống câu hỏi gợi ý tìm hiểu bài 1.3. Nhiệm vụ Tính đa nghĩa của tập đọc kéo theo tính đa nghĩa của “biết đọc”. “Biết đọc” được hiểu theo nhiều mức độ. Một em bé mới đi học, biết đánh vần ngập ngừng đọc từng tiếng một thế cũng gọi là biết đọc. Đọc, thâu tóm được tư tưởng của một cuốn sách trong vài ba trang cũng là biết đọc. Chọn trong biển sách báo của nhân loại những gì mình cần, trong một ngày nắm được tinh thần của hàng chục cuốn sách cũng gọi là biết đọc. Những năng lực này không phải tự nhiên mà có, không thể chờ đợi gặt hái những gì mà ta không gieo trồng. Nhà trường phải từng bước hình thành và trường Tiểu học nhận nhiệm vụ đặt viên gạch đầu tiên. Nhiệm vụ quan trọng nhất của phân môn Tập đọc là hình thành năng lực đọc cho học sinh. Năng lực đọc tạo nên từ bốn kĩ năng bộ phận cũng là bốn yêu cầu về chất lượng của đọc: đọc đúng, đọc nhanh (đọc lưu loát trôi chảy), đọc có ý thức (thông hiểu được nội dung những điều mình đọc hay còn gọi là đọc hiểu) và đọc hay (mà ở mức độ cao hơn là đọc diễn cảm). Cần phải hiểu kĩ năng đọc có nhiều mức độ, nhiều tầng bậc khác nhau. Đầu tiên là đọc giải mã chữ - âm một cách sơ bộ. Tiếp theo, đọc là phải hiểu nghĩa của từ, tìm được các từ chìa 3 TIEU LUAN MOI download : skknchat123@gmail.com khóa, câu chìa khoá (câu trọng yếu, câu chốt) trong bài, biết tóm tắt nội dung của đoạn; với những bài văn, biết phát hiện ra những yếu tố văn và đánh giá được những giá trị của chúng trong việc biểu đạt nội dung. Như vậy, lúc này, biết đọc đồng nghĩa với việc có kĩ năng làm việc với văn bản, chiếm lĩnh được văn bản (bài khoá) ở các tầng bậc khác nhau: nội dung các sự kiện, cấu trúc, chủ đề, các phương tiện biểu đạt. Bốn kĩ năng của đọc được hình thành trong hai hình thức đọc: đọc thành tiếng và đọc thầm. Chúng được rèn luyện đồng thời và hỗ trợ nhau. Sự hoàn thiện một trong những kĩ năng này sẽ có tác động tích cực đến những kĩ năng khác. Ví dụ, đọc đúng là tiền đề của đọc nhanh cũng như cho phép thông hiểu nội dung văn bản. Ngược lại, nếu không hiểu điều mình đang đọc thì không thể đọc nhanh và diễn cảm được. Cũng như khó mà nói được rạch ròi kĩ năng nào làm cơ sở cho kĩ năng nào, nhờ đọc đúng mà hiểu đúng hay chính nhờ hiểu đúng mà đọc được đúng. Vì vậy, trong dạy đọc, không thể xem nhẹ kĩ năng nào, cũng như không thể tách rời chúng. Nhiệm vụ của dạy đọc là giáo dục lòng ham đọc sách, hình thành phương pháp và thói quen làm việc với sách cho học sinh. Làm cho sách trở thành một sự tôn sùng ngự trị trong nhà trường, đó là một trong những điều kiện để trường học thực sự trở thành trung tâm văn hoá. Nói cách khác, thông qua việc dạy đọc phải làm cho học sinh thích đọc và thấy được rằng khả năng đọc là có ích lợi cho các em trong cả cuộc đời. Phải làm cho học sinh thấy đó là một trong những con đường đặc biệt để tạo cho mình một cuộc sống trí tuệ đầy đủ và phát triển. Vì việc đọc không thể tách rời khỏi những nội dung được đọc nên bên cạnh nhiệm vụ rèn kĩ năng đọc, giáo dục lòng yêu sách, phân môn Tập đọc còn có nhiệm vụ làm giàu kiến thức về ngôn ngữ, đời sống và kiến thức văn học cho học sinh. Đọc một cách có ý thức sẽ có tác động tích cực tới ngôn ngữ và tư duy của người đọc. Việc dạy đọc sẽ giúp học sinh hiểu biết hơn, bồi dưỡng ở các em lòng yêu cái thiện và cái đẹp, dạy cho các em biết suy nghĩ một cách lôgic cũng như biết có tư duy hình ảnh. Dạy đọc không chỉ giáo dục tư tưởng, đạo đức mà còn giáo dục tính cách, thị hiếu thẩm mỹ cho học sinh. Như vậy, dạy đọc có một ý nghĩa to lớn vì nó có cả các nhiệm vụ giáo dưỡng, giáo dục và phát triển. 2. Thực trạng của vấn đề nghiên cứu 2.1. Khảo sát Năm học 2017-2018, tôi được phân công chủ nhiệm lớp 5A2 với sĩ số 33 học sinh. Vào đầu năm học, tôi tiến hành khảo sát chất lượng của phân môn Tập đọc để đánh giá, phân loại học sinh. Kết quả cụ thể như sau: Đọc tốt Đọc khá tốt Đọc được (đúng, lưu loát, (đúng, lưu loát, (đọc đúng nhưng ngắt nghỉ 4 TIEU LUAN MOI download : skknchat123@gmail.com diễn cảm) chưa diễn cảm) chưa hợp lí, chưa diễm cảm) 6 = 18,2% 9 = 27,3% 18 = 54,5% Qua kết quả khảo sát trên cho thấy, mặc dù là học sinh cuối cấp nhưng số học sinh đạt yêu cầu ở mức độ đọc diễm cảm là quá thấp. 2.2. Đánh giá học sinh 2.2.1. Trao đổi với đồng nghiệp Khi trao đổi với một số đồng nghiệp trong tổ khối, các đồng chí cho rằng: - Học sinh hiện nay nhận thức nhanh và có vốn sống phong phú. Tuy nhiên, việc học Tiếng Việt ở một số em còn hạn chế, đặc biệt là khả năng đọc của các em không đồng đều, phát âm còn sai, đọc chưa nhanh, chưa hay. Đó cũng là một phần ảnh hưởng của cách phát âm ở địa phương và do các em chưa hiểu kĩ về nội dung của bài văn, bài thơ. Thực tế nhiều học sinh không có kĩ năng đọc diễn cảm nhưng cứ cố đọc nên xảy ra tình trạng các em đọc nâng cao, hạ thấp hay nhấn giọng một cách tùy tiện khiến cho bài đọc nghe rất khó chịu. - Chương trình: Hầu hết các bài văn, thơ đều hay cả về nội dung và hình thức, được sắp xếp theo từng chủ đề, được tuyển chọn mang một màu sắc riêng, phù hợp với lứa tuổi của các em. 2.2.2. Trao đổi với học sinh - Đa số các em rất thích đọc những bài tập đọc trong chương trình lớp 5 nhưng nhiều em còn nhận thấy mình đọc chưa hay, chưa thể hiện được giọng điệu của nhân vật. - Số lượng học sinh chuẩn bị kĩ lưỡng cho một bài đọc không cao, nhiều em chuẩn bị qua loa, sơ sài, chỉ đọc trước một đến hai lượt, có em còn không đọc. 2.2.3. Trao đổi với phụ huynh - Một số phụ huynh cho rằng con cái của mình đọc to, rõ ràng, lưu loát, diễn cảm, nhập tâm. - Số phụ huynh còn lại thì cho rằng, các con đọc còn bé, ngắt nghỉ chưa phù hợp, chưa thể hiện đúng giọng điệu của bài, khi đọc còn đối phó, còn mang tính chất đọc vẹt; về nhà, các con còn chưa dành nhiều thời gian cho việc đọc lại bài và chuẩn bị bài tập đọc lần sau. 2.2.4. Dự giờ đồng nghiệp Người dạy: Vũ Thị Hiền – Lớp 5A1 Bài: Những con sếu bằng bằng giấy Nhận xét chung: * Ưu điểm: 5 TIEU LUAN MOI download : skknchat123@gmail.com - Xác định được mục tiêu, chuẩn kiến thức và kĩ năng, nội dung cơ bản của bài. - Dạy đúng đặc trưng của bộ môn, ®óng lo¹i bµi. - Vận dụng phương pháp và hình thức tổ chức dạy học hợp lý. - Giáo viên đã giúp học sinh cảm thụ tốt nội dung bài tập đọc, hướng dẫn học sinh nhấn giọng ở những từ ngữ gợi tả, gợi cảm, cách đọc các kiểu câu, cách ngắt, nghỉ hơi phù hợp… - Giáo viên cũng đã truyền đạt đúng những ý nghĩ và tình cảm của tác giả. - Khuyến khích, động viên, khen ngợi kịp thời khi học sinh đọc tốt. - Giáo viên có giọng đọc hay, truyền cảm. - Tác phong sư phạm chuẩn mực, nhẹ nhàng. - Đa số học sinh đọc và trả lời các câu hỏi tốt. * Nhược điểm: - Thời gian dành cho phần luyện đọc diễn cảm còn ít, học sinh chưa thể hiện được tính cách, tâm trạng của nhân vật. Phát phiếu điều tra - Đoạn 3 em cần đọc với giọng như thế nào? a, Giọng trầm, buồn, nhấn giọng những từ nói lên khát vọng sống của cô bé Xa- da – cô. b, Đọc nhanh, cao giọng. c, Đọc hơi chậm, rõ ràng, nhấn giọng những từ nói lên khát vọng sống của Xa- da - cô. Kết quả: Trong 15 em đựơc phát phiếu có: - 5 em chọn ý a - 7 em chọn ý c - 3 em chọn ý b 2.2.5. Nguyên nhân của thực trạng a) Về phía giáo viên *Ưu điểm: Trong giảng dạy phân môn Tập đọc, giáo viên xác định được mục đích, yêu cầu khi dạy từng dạng bài; tìm hiểu bài kĩ hơn; được trang bị về phương pháp giảng dạy bộ môn; đựơc tiếp thu kiến thức về phương pháp dạy học; vận dụng những ưu điểm của phương pháp dạy học cũ với những mặt tích cực của phương pháp dạy học mới để giảng dạy đạt hiệu quả. Giáo viên đã chú trọng tới việc rèn đọc, khả năng cảm thụ các tác phẩm văn học cho các em, chú ý đến khâu làm mẫu. Trong giờ dạy tập đọc, phần tổ chức cho học sinh luyện đọc diễn cảm giáo viên đều đã làm theo một quy trình như sau: + Đưa đoạn văn (thơ) 6 TIEU LUAN MOI download : skknchat123@gmail.com + Học sinh phát hiện cách đọc + Học sinh khác bổ sung + Giáo viên chốt lại cách đọc + Một học sinh đọc lại + Học sinh luyện đọc theo cặp + Thi đọc + Giáo viên cùng học sinh khác nhận xét đánh giá *Tồn tại: Việc rèn kĩ năng đọc diễn cảm còn hạn chế, các giáo viên phần lớn chỉ quan tâm nhiều đến việc đọc đúng. Bản thân giáo viên chưa nhận thức đúng tầm quan trọng của việc rèn đọc diễn cảm. Việc hướng dẫn các em đọc diễn cảm còn chưa cụ thể, rõ ràng; chưa uốn nắn, sửa sai kịp thời cho các em. Trong một số tiết học, giáo viên chuẩn bị bài chưa kĩ, việc khai thác các từ ngữ và các yêu tố nghệ thuật đặc sắc trong các bài học còn sơ sài. Có nhiều bài viết thực sự bộc lộ mạnh cảm xúc về thế giới cuộc sống, giáo viên phải có trí tưởng tượng sự liên tưởng phong phú hoà nhịp với tác giả thì mới giúp các em cảm thụ đựơc tác phẩm đó qua ngôn từ. Bản thân giáo viên chưa nắm được tầm quan trọng của việc giải nghĩa từ, hình ảnh đặc sắc; chưa tìm hiểu kĩ các từ ngữ, hình ảnh đặc sắc đó. Năng lực cảm thụ của giáo viên còn hạn chế, chưa phối hợp các phương pháp một cách hợp lý khi giảng dạy các bài văn thơ. Giáo viên cũng đã quan tâm đến việc giáo dục thẩm mỹ, giáo dục tư tưởng tình cảm nhưng chưa sâu sắc thường rất chung chung, gò ép theo một mô tuýp nhất định. Giáo viên chưa đưa những biện pháp hữu hiệu giúp các em khai thác hết giá trị nội dung nghệ thuật của bài đọc . Trong một số tiết học, giáo viên chưa khai thác hết đồ dùng và sử dụng đồ dùng trực quan một cách chưa hợp lý. Giáo viên đọc mẫu chưa lôi cuốn được học sinh. Một số giáo viên chưa hiểu rõ mỗi quan hệ mật thiết giữa cảm thụ văn học với việc đọc diễn cảm bài văn (thơ). b) Về phía học sinh *Ưu điểm: - Đa số các em yêu thích phân môn Tập đọc vì nó cung cấp cho các em nhiều kiến thức bổ ích, nhiều hành vi đạo đức đẹp, giờ học diễn ra nhẹ nhàng. *Tồn tại: - Đa số các em chưa có ý thức rèn đọc diễn cảm. - Khả năng cảm thụ văn thơ chưa được phát huy. - Học sinh chưa có hứng thú đọc. 7 TIEU LUAN MOI download : skknchat123@gmail.com - Vốn từ ngữ, vốn hiểu biết của các em còn nhiều hạn chế. - Chưa hiểu rõ tác dụng của việc sử dụng các thủ pháp nghệ thuật trong thơ. - Chưa phát huy được khả năng đọc của mình. - Các em chưa thực sự chú ý nghe giảng, khả năng tư duy chưa cao. 3. Các giải pháp Trước thực trạng nêu trên, tôi xin đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đọc diễn cảm cho học sinh lớp 5 như sau: 3.1. Lập kế hoạch rèn đọc diễn cảm 3.1.1. Sự chuẩn bị của giáo viên Giáo viên thực hiện hai yêu cầu cơ bản là đọc mẫu tốt và chuẩn bị hướng dẫn học sinh đọc diễn cảm tốt. Để đọc mẫu tốt, giáo viên cần rèn luyện công phu cả về giọng đọc, kỹ thuật đọc lẫn năng lực cảm thụ văn học. Tìm hiểu kĩ bài văn để cảm thụ sâu sắc, tinh tế sẽ tìm được cách đọc hấp dẫn. Giáo viên phải rèn luyện để có được một giọng đọc mẫu mực vừa gây được hứng thú cho học sinh, vừa có cơ sở để dạy các em học tốt. Sự chuẩn bị về bài soạn và đồ dùng của giáo viên là rất cần thiết. Giáo viên cần soạn bài thật kĩ lưỡng trước 3 ngày với hệ thống câu hỏi ngắn gọn, rõ ý, dễ hiểu, rõ lệnh đề, câu hỏi cho 3 đối tượng (hoàn thành tốt, hoàn thành và chưa hoàn thành) trong lớp học, xác định rõ mục đích, yêu cầu, trọng tâm kiến thức, kĩ năng cần rèn luyện, cách hướng dẫn đọc, nghệ thuật đọc từng đoạn, cả bài như thế nào, đoạn nào cần luyện đọc kĩ, từ đó chuẩn bị trước những câu, đoạn luyện đọc trên bảng phụ hay trong các slide của giáo án điện tử để khi học sinh đọc, dưới lớp dễ quan sát, theo dõi và phát hiện ra cách đọc hay. Nghiên cứu tài liệu, lựa chọn phương pháp, đồ dùng dạy học phù hợp với bài dạy. Tạo dựng không khí lớp học sao cho đồng đều bằng cách: Dàn đều lực học ở các bàn, tạo ra không khí thi đua giữa các cá nhân với cá nhân, các bàn với nhau, các tổ với nhau (giáo viên lập hồ sơ xếp chỗ ngồi hợp lý). 3.1.2. Công việc chuẩn bị của học sinh - Đọc trước bài ở nhà 4 lần: + Lần 1: Đọc nắm bắt thể thức dấu câu. + Lần 2: Đọc chậm thể hiện nội dung bài. + Lần 3: Tiến hành đọc diễn cảm (Học sinh tự xác định cách đọc dựa vào kiến thức vốn có của bản thân). + Lần 4: Tiếp tục luyện đọc diễn cảm (củng cố cho lần 3) - Học sinh chuẩn bị đầy đủ đồ dùng phương tiện cho từng bài học cụ thể, lựa chọn phương pháp học và tự học để tiếp thu bài được tốt hơn. 3.2. Hình thành và luyện những kĩ năng đọc thành tiếng cho học sinh 3.2.1. Yêu cầu luyện đọc 8 TIEU LUAN MOI download : skknchat123@gmail.com - Các mục tiêu luyện đọc phải rõ ràng, tường minh ở trực quan nghĩa là mục tiêu các chỉ dẫn yêu cầu, thông rõ âm thanh của lời nói phải đo đếm được, làm mẫu được. - Cường độ luyện đọc phải cao, nội dung luyện đọc phải được nhắc đi nhắc lại nhiều lần trên những ngữ điệu khác nhau, được củng cố nhiều lần để tạo thành kĩ xảo. - Phải lựa chọn ngữ liệu (đoạn) để luyện đọc sao cho phù hợp. - Trong khi luyện đọc phải phối hợp tối đa các biện pháp luyện đọc. 3.2.2. Chuẩn bị cho việc đọc Hướng dẫn học sinh chuẩn bị tâm thế đọc, khi đựơc cô giáo gọi phải bình tĩnh, tự tin không hấp tấp đọc ngay. Giáo viên phải coi trọng khâu chuẩn bị để đảm bảo thành công của tiết dạy, tạo cho các em sự tự tin cần thiết để đi vào giao tiếp. Sửa tư thế đứng đọc, ngồi đọc cho các em một cách đàng hoàng thoải mái, sách phải được mở rộng hai tay. 3.2.3. Luyện đọc to Người đọc phải làm chủ âm lượng của mình sao cho tất cả mọi người đều nghe được. Giáo viên cần hướng dẫn học sinh cách nâng giọng cao hơn để đọc được to, cần luyện cho học sinh thở sâu và nâng hơi ở những chỗ ngắt nghỉ khi đọc. 3.2.4. Luyện đọc đúng Giúp học sinh tái hiện mặt âm thanh của bài đọc một cách chính xác không có lỗi. Đọc đúng là không đọc thừa, không sót tiếng. Đọc đúng phải thể hiện hệ thống ngữ âm chuẩn - tức là đọc đúng chính âm. Giáo viên phải dự tính ngăn ngừa các lỗi khi đọc, làm mẫu hướng dẫn từ dễ đến khó, cuối cùng mới cho học sinh đọc. *Luyện đọc chính âm: Một nhược điểm lớn của học sinh trường Tiểu học Hữu Nghị nói riêng và học sinh trên địa bàn thành phố Hạ Long nói chung là hay đọc lẫn lộn các âm l/n; s/x; ch/tr; d/r/gi;. đặc biệt là l/n. Bởi vậy, giáo viên cần sửa sai cho các em bằng cách hướng dẫn các em phát âm chuẩn. Chẳng hạn, khi đọc âm l, tr thì đầu lưỡi phải cong lên sát chân răng hàm trên, hơi phát ra nhẹ hơn. Khi đọc âm n, ch thì đầu lưỡi phải thẳng ra, hơi phát ra tự nhiên. Luyện nhiều lần như vậy, các em sẽ quen dần. Giáo viên không nên sửa lỗi phát âm cho học sinh khi học sinh đang đọc mà nên để sau khi các em đọc xong mới nhận xét và yêu cầu đọc lại tiếng từ vừa đọc sai để khỏi làm gián đoạn mạch đọc của các em. Nếu giáo viên nhận xét ngang chừng sẽ làm các em mất cảm xúc, quá chú trọng việc đọc chính âm 9 TIEU LUAN MOI download : skknchat123@gmail.com không đảm bảo được yêu cầu đọc diễn cảm. Có thể đưa ra một số ví dụ để học sinh luyện đọc thêm (trong giờ học ngoại khoá). Ví dụ: - Con lươn nó lườn trong lọ. - Cái lọ lục bình nó lăn lông lốc. - Nồi niêu nó nấu no nê. - Nợ nần nó nói não nề nỉ non. *Song song với đọc chính âm, cần luyện cho học sinh đọc đúng vần, thanh. Ví dụ: Các em hay mắc lỗi “ưu tiên” đọc là “iêu tiên” hay “iu tiên”; “con hươu” đọc là “con hiêu”; “học hành” đọc là “học hằn”; “bị ngã” đọc là “bị ngá”… Khi học sinh mắc những lỗi này cần luyện cho các em đọc nhiều lần, phân biệt rõ vần, thanh. *Đọc đúng bao gồm cả đúng tiết tấu, ngắt lời, nghỉ hơi, ngữ điệu câu. Đối với những bài thơ cần ngắt đúng nhịp thơ. Câu thơ 7 chữ cần ngắt nhịp phổ biến là 3/4 hoặc 4/3. Thơ lục bát: câu 6 ngắt nhịp 2/2/2; câu 8 ngắt nhịp 4/4. Thơ 5 chữ ngắt nhịp phổ biến là 2/3 hoặc 3/2. Bên cạnh đó cần phải dựa vào nghĩa, vào quan hệ ngữ pháp giữa các tiếng trong câu để ngắt hơi cho đúng. Những câu thơ khó, giáo viên cho học sinh thảo luận cách ngắt nhịp đúng và chọn ra cách ngắt nhịp hay nhất diễn tả chính xác đầy đủ nội dung, ý thơ. Ví dụ: Cây rung theo gió, lá bay xuống đường (Chú đi tuần - Trần Ngọc) Học sinh dễ ngắt sai là 2/2/2/2 (Cây rung/ theo gió, lá bay/ xuống đường). Giáo viên gợi ý cho học sinh hiểu rõ ý thơ, cần gợi ý cho các em cách ngắt nhịp đúng là: Cây/ rung theo gió, lá/ bay xuống đường. Học sinh cũng dễ đọc theo áp lực của nhạc thơ khi đọc câu: Nhìn ánh điện qua/ khe phòng lưu luyến Cần gợi mở cho học sinh ngắt nhịp đúng: Nhìn ánh điện/ qua khe phòng lưu luyến Cách đọc này giúp người nghe hiểu rõ hơn nội dung của câu thơ mà tác giả muốn đề cập. Khi đọc không được tách một từ làm hai: Ví dụ: Trái đất/ này là của chúng mình. Quả bóng/ xanh bay giữa trời xanh. Ngắt đúng: Trái đất này/ là của chúng mình. Quả bóng xanh/ bay giữa trời xanh. Cần biết ngắt nghỉ đúng giữa các cụm từ trong câu dài. 10 TIEU LUAN MOI download : skknchat123@gmail.com Ví dụ: “Con người cầm vũ khí bảo vệ quê hương/ và tưng bừng nhảy múa mừng chiến công/ hay cảm tạ thần linh.” Việc ngắt hơi còn phải phù hợp với các dấu câu. Ngắt hơi ở dấu phẩy(,), nghỉ hơi lâu hơn ở dấu chấm (.), ở dấu chấm phẩy (;). Sau mỗi đoạn, mỗi khổ thơ thời gian nghỉ lâu hơn dấu chấm trước khi chuyển sang đoạn khác, khổ khác. 3.2.5. Luyện đọc nhanh (còn gọi là lưu loát, trôi chảy) Đọc nhanh không có nghĩa là đọc luyến thoắng, đọc để cho người nghe kịp hiểu được. Có những học sinh hiểu lầm đọc càng nhanh càng giỏi nên đọc quá nhanh, không ai kịp hiểu. Giáo viên cần hướng dẫn học sinh làm chủ tốc độ bằng cách đọc mẫu để học sinh đọc theo tốc độ đã định. Đơn vị của đọc nhanh là cụm từ, câu, đoạn bài. Giáo viên phải biết theo dõi tốc độ của học sinh và biết giữ nhịp đọc, điều chỉnh bằng lệnh. Giáo viên xác định tốc độ đọc bằng cách đếm số tiếng trong bài, dự kiến thời gian đọc trong bao lâu. Chú ý tốc độ đọc còn phụ thuộc vào độ khó của bài đọc và thể loại văn bản. Những bài có nội dung khó hiểu cần đọc chậm hơn những bài có nội dung đơn giản. Thơ cần đọc chậm hơn các văn bản văn xuôi. Đọc lưu loát đòi hỏi yêu cầu cao hơn đọc đúng. Đọc lưu loát phải đạt yêu cầu về tốc độ, không ê - a, ngắc ngứ. Tốc độ nhanh chỉ thực hiện được khi đã đọc đúng. Khi đọc phải chú ý xác định tốc độ để người nghe kịp thời hiểu được chứ không phải đọc nhanh, đọc luyến thoắng. Bởi vậy, giáo viên cần hướng dẫn học sinh làm chủ tốc độ bằng cách đọc mẫu để học sinh đọc thầm theo. Ngoài ra còn cần dùng nhiều biện pháp đọc tiếp nối, đọc nhẩm có sự kiểm tra giám sát của giáo viên, của bạn để điều chỉnh tốc độ đọc. Khi học sinh đọc cá nhân, giáo viên cần nhắc cả lớp đọc thầm theo và cũng có thể gây cho các em hứng thú bằng các trò chơi cuối giờ học như: thi đọc tiếp sức, đọc thơ truyền điện. Ví dụ: Khi dạy bài “Thái sư Trần Thủ Độ” tôi cho học sinh luyện đọc tiếp sức ba đoạn. Tôi gọi từng nhóm 3 em, mỗi em đọc một đoạn. Tôi điều khiển học sinh và bấm giờ. Nhóm nào đọc đúng, chuẩn, không mắc lỗi là nhóm đó thắng. Kết thúc cuộc chơi bao giờ tôi cũng tuyên dương nhóm thắng cuộc và gợi ý rút kinh nghiệm lần sau. Những em đọc chậm cần nhắc nhở các em có ý thức luyện đọc thêm ở nhà. 3.2.6. Luyện đọc diễn cảm Đọc diễn cảm là một yêu cầu đọc thành tiếng đặt ra khi đọc những văn bản có các yếu tố của ngôn ngữ văn chương. Đó là khả năng làm chủ đựơc ngữ điệu, làm chủ các thông số âm thanh như tốc độ, chỗ ngừng giọng, cường độ, độ cao. để biểu đạt đúng ý nghĩa và tình cảm mà tác giả đã gửi gắm trong bài đọc, đồng thời thể hiện sự thông hiểu, cảm thụ của người đọc đối với tác phẩm. Đọc 11 TIEU LUAN MOI download : skknchat123@gmail.com diễn cảm thể hiện năng lực đọc ở trình độ đọc cao và chỉ thực hiện được trên cơ sở đọc đúng và đọc lưu loát. Đọc diễn cảm không phải là đọc thiếu tự nhiên, có tính chất “kịch” và tuỳ theo ý thích chủ quan của người đọc mà nó được quy định bởi cảm xúc của bài đọc, cho nên tác phẩm quy định ngữ điệu cho người đọc chứ không phải người đọc tự đặt ra ngữ điệu. Vì vậy, muốn dạy học sinh đọc diễn cảm trước hết phải làm cho các em hoà nhập với bài văn, bài thơ. Có cảm xúc thì sẽ bật ra được ngữ điệu thích hợp. Để luyện đọc diễn cảm, cần làm các công việc sau: - Học sinh làm quen với toàn tác phẩm, xác định giọng chung của cả bài. - Giáo viên tổ chức cho học sinh đàm thoại, nhận ra thể loại văn bản, hiểu ý đồ của tác giả, thảo luận với học sinh để xác định giọng đọc chung của cả bài. Về thể loại, nếu đọc thơ phải chú ý tính nhịp điệu của ngôn ngữ thơ ca, tức là truyền đạt được chất nhạc của thơ, thể hiện được sự luân chuyển, nhịp nhàng giữa các dòng thơ. Đồng thời học sinh cần tránh cách đọc dừng lại máy móc ở cuối mỗi dòng thơ, không chú ý đến nghĩa tiếp nối của dòng trước và dòng sau. Có nhiều học sinh có thói quen đọc đều đều như đếm từng tiếng một. Đọc văn xuôi thì điều quan trọng là cho thấy sự vận động tư tưởng của tác giả. - Nội dung chính của bài đọc (trong phần đọc hiểu đã trình bày) sẽ giúp học sinh xác định giọng đọc chung của cả bài: nhẹ nhàng, tha thiết, vui tươi, ngợi ca, mạnh mẽ, trầm lắng, buồn thương,.; nhịp điệu của bài: nhanh, hơi nhanh, hơi chậm, chậm,. - Học sinh phân tích thể hiện, lập dàn ý và xác định giọng đọc của từng đoạn. - Học sinh tập luyện để thể hiện giọng đọc của từng câu, đoạn, bài. Tập luyện thể hiện là yếu tố quan trọng hàng đầu để bảo đảm cho học sinh thành công khi đọc trước người nghe. Khi luyện tập, giáo viên cần chỉ ra những chỗ khó đọc, những điểm nút trong bài, đòi hỏi học sinh phải hiểu được mới tìm cách thể hiện giọng đọc. Cần nhớ rằng học sinh hiểu được tác phẩm đã khó mà thể hiện sự hiểu đó bằng giọng đọc càng khó hơn. Trong bước tập luyện, học sinh phải thảo luận, nhận xét về giọng đọc, giải thích vì sao đọc như thế là hay, đọc như thế là chưa hay, chỗ nào trong cách đọc của thầy, trong cách của bạn làm mình thích. Cuối cùng học sinh phải luyện đọc cá nhân. Ở nhiều bài có thể cho học sinh phân vai để làm sống lại những nhân vật của tác phẩm, để đọc phân biệt lời tác giả và lời nhân vật, phân biệt lời của các nhân vật khác nhau. Việc đọc diễn cảm thể hiện ở kĩ năng làm chủ ngữ điệu, chỗ ngừng giọng, cường độ giọng,. để biểu đạt đúng ý nghĩa và tình cảm mà tác giả đã gửi gắm 12 TIEU LUAN MOI download : skknchat123@gmail.com trong bài tập đọc, đồng thời thể hiện sự thông hiểu, cảm thụ của người đọc đối với tác phẩm. Đọc diễn cảm thể hiện ở năng lực đọc, ở trình độ cao và chỉ thực hiện được trên cơ sở đọc đúng, đọc lưu loát. Đọc diễn cảm là một yêu cầu rất quan trọng đối với học sinh lớp 4, lớp 5. Đọc diễn cảm trên cơ sở hiểu thấu đáo nội dung văn bản. Song song với việc ngắt nhịp, giáo viên cần hướng dẫn cho học sinh nắm được cách đọc từng câu, đoạn, bài. Tuỳ theo từng đoạn mà có giọng đọc sao cho phù hợp như: vui, buồn, giận dữ, nghiêm trang, nhanh hay chậm. Giọng đọc phải phù hợp với nội tâm nhân vật trong đoạn hội thoại, biết nhấn giọng ở một số từ gợi tả, gợi cảm. Giáo viên không nên quá áp đặt sẵn cách đọc cho học sinh mà phải gợi mở để học sinh phát hiện ra cách đọc phù hợp nhất. Ví dụ: + Khi dạy bài “Thư gửi các học sinh” (Hồ Chí Minh), tôi yêu cầu học sinh cho biết các đoạn cần đọc với giọng thế nào? (đoạn 1: đọc với giọng thân ái, nhẹ nhàng; đoạn 2: đọc với giọng xúc động, thể hiện tình cảm yêu quý của Bác niềm tin tưởng và hi vọng của Bác vào học sinh). + Dạy bài “Quang cảnh làng mạc ngày mùa” (Tô Hoài), tôi cho học sinh đề xuất cách đọc phù hợp nhất: Biết đọc diễn cảm toàn bài văn miêu tả quang cảnh làng mạc ngày mùa với giọng tả chậm rãi, dịu dàng, nhấn giọng những từ ngữ miêu tả màu vàng rất khác nhau của cảnh vật. + Trong bài “Thái sư Trần Thủ Độ”; cho học sinh nêu cách đọc giọng từng nhân vật. Mỗi nhân vật đọc với giọng khác nhau, cùng một nhân vật nhưng giọng đọc cũng phải phù hợp với từng thời điểm chẳng hạn: giọng của Linh Từ Quốc Mẫu: ấm ức; giọng của Trần Thủ Độ ở đoạn 2: ôn tồn, điềm đạm nhưng ở đoạn 3: giọng trầm ngâm, thành thật, gây ấn tượng bất ngờ về cách ứng xử của Trần Thủ Độ. Cần cho học sinh chơi sắm vai nhân vật để giờ học sinh động (có diễn tả một số hành động). + Đọc bài: “Lòng dân” (Nguyễn Văn Xe) cần để học sinh đọc cảm nhận được nội dung toàn bài. Từ đó đưa ra được cách đọc phù hợp, đọc trôi chảy toàn bài, biết ngắt giọng đúng để phân biệt được tên nhân vật và lời nhân vật. Đọc đúng ngữ điệu các câu hỏi, các câu kể, câu cầu khiến, câu cảm trong vở kịch. Sau đó đọc đúng giọng từng nhân vật: Người dẫn chuyện: đọc lời mở đầu bằng giọng kể, giới thiệu tình huống diễn ra vở kịch; giọng cai và lính: hống hách, xấc xược; giọng dì Năm: tự nhiên, khi than vãn, lúc nghẹn ngào; giọng An: giọng một đứa trẻ đang khóc. + Đọc bài thơ “Bài ca về trái đất” (Định Hải) cần thay đổi giọng một cách linh hoạt khi đọc mỗi đoạn thơ cho phù hợp: đoạn 1: đọc to, rõ ràng; đoạn 2: 13 TIEU LUAN MOI download : skknchat123@gmail.com giọng trầm, buồn; đoạn 3: giọng thương cảm, xúc động; đoạn 4: giọng trầm, chậm. Để đọc diễn cảm, người đọc phải làm chủ được chỗ ngắt giọng ở đây muốn nói đến kỹ thuật ngắt giọng, biểu cảm, ngắt sao cho tự nhiên, nhịp nhàng, làm chủ được tốc độ đọc (nhanh hay chậm, ngân hay dãn nhịp đọc) làm chủ được cường độ (đọc to hay nhỏ, nhấn giọng hay không) và làm chủ được ngữ điệu (độ cao của giọng đọc, lên giọng hay hạ giọng). Đối với học sinh tiểu học khi nói đến đọc diễn cảm, người ta thường nói về một số kỹ thuật như ngắt giọng biểu cảm, sử dụng tốc độ và ngữ điệu. Ngắt giọng biểu cảm là phương tiện tác động đến người nghe. Ngắt giọng biểu cảm thiên về cảm xúc là những chỗ lắng, sự im lặng có tác dụng truyền cảm. Ví dụ: Đọc câu thơ “Men trời đất/ đủ làm say đất trời.” (Hành trình của bầy ong) nếu tạo một chỗ ngừng (ngắt giọng) sau “Men trời đất” thì sẽ có hiệu quả nghệ thuật cao hơn so với ngắt giọng bình thường vì ngắt giọng như vậy sẽ dồn âm lượng cho từ “say”. Cách đọc như vậy gây cho người đọc một sự chú ý, thấy được bầy ong mang lại mật ngọt cho đời, để con người cảm nhận được những mùa hoa đã tàn phai còn trong mật ong. Tốc độ đọc ảnh hưởng đến sự diễn cảm, đặc biệt là chỗ thay đổi tốc độ gây sự chú ý, có giá trị biểu cảm tốt. Ví dụ: Trong bài “Tiếng đàn ba-la-lai-ca trên sông Đà” (Quang Huy) khi đọc đoạn 1 và đoạn 2 ta đọc chậm vì tác giả miêu tả đêm trăng vừa tĩnh mịch vừa sinh động vì có tiếng đàn của cô gái Nga, có dòng sông lấp loáng dưới ánh trăng. Những câu kế tiếp ta đọc giọng vui với tốc độ nhanh hơn một chút sẽ cuốn hút được người nghe làm cho người ta cảm nhận được hình ảnh đẹp thể hiện sự gắn bó giữa con người với thiên nhiên. Tiếng đàn ngân nga lan toả, dòng sông như dòng trăng. Về ngữ điệu: Theo nghĩa hẹp, ngữ điệu là sự lên cao hay hạ thấp giọng. Mỗi kiểu câu chia theo mục đích nói đều có ngữ điệu riêng, cần hướng dẫn học sinh đọc đúng ngữ điệu của các kiểu câu: Câu cảm: Là diễn tả niềm vui hay sự lo lắng nên giọng phải phù hợp với tâm trạng. Câu cầu khiến: Giọng dứt khoát mạnh mẽ. Câu kể: Hạ giọng ở cuối câu. Câu hỏi: Lên giọng ở cuối câu, nhấn giọng từ cần hỏi. Theo nghĩa rộng đọc diễn cảm là sự hoà đồng của chỗ ngừng; tốc độ; chỗ nhấn giọng; cao độ. để tạo nên âm hưởng của bài đọc; cần hướng dẫn để học sinh hiểu rằng “đọc diễn cảm” không phải là đọc “điệu”, đọc thiếu tự nhiên dựa vào ý thích chủ quan của người đọc. Đọc diễn cảm là sử dụng ngữ điệu để phô 14 TIEU LUAN MOI download : skknchat123@gmail.com diễn cảm xúc sẽ tìm được ngữ điệu thích hợp; chính văn bản quy định ngữ điệu cho chúng ta chứ không phải chúng ta đặt ra ngữ điệu cho văn bản. Chính vì thế, người giáo viên không nên áp đặt sẵn cách đọc. Ngược lại đó phải là kết luận tự nhiên của học sinh đưa ra sau khi hiểu sâu sắc nội dung bài đọc và biết cách diễn đạt thích hợp dưới sự hướng dẫn của giáo viên. Việc chúng ta tạm phân ra các bước luyện đọc đúng, đọc nhanh, diễn cảm là để làm rõ hơn các kỹ thuật luyện tập và tổng số các công việc cần tiến hành trong khi tổ chức dạy học đọc. Việc làm này hoàn toàn không đi ngược lại tư tưởng cần quán triệt trong luyện đọc thành tiếng. Văn bản không phải là phép cộng số học đơn thuần của từ, câu, đoạn mà là một chỉnh thể tổng hoà các yếu tố ngôn ngữ này. Ngữ điệu cũng không phải là một tổng thể các yếu tố tốc độ, cường độ, cao độ đơn lẻ mà là sự hoà đồng của các yếu tố này. Vì vậy các thứ tự đề mục đã nêu ở trên không phải là trình tự các công việc cần làm. Trong khi luyện đọc diễn cảm cần sửa lỗi phát âm, khi luyện đọc đúng chỗ ngắt giọng đã là tạo ra cách đọc diễn cảm. kết thúc quá trình luyện đọc thành tiếng, học sinh phải đọc được toàn bài ở trình độ đúng, hay, diễn cảm. Tất nhiên tuỳ từng lớp, từng vùng cụ thể mà yêu cầu này được đặt ra ở những mức độ khác nhau. 3.3. Hình thức, phương pháp luyện đọc Giáo viên cho các em đọc tốt thể hiện để giúp các em khác định hình và nắm được cách đọc. Sau đó gọi nhiều em khác đọc; cho các em tự nhận xét cách đọc của bạn và sửa chữa. Khi học sinh đọc, giáo viên nên tiếp cận đối tượng phát hiện và sửa chữa kịp thời cho các em. Trường hợp các em đọc sai giáo viên nên nhẹ nhàng nhắc nhở và gợi mở để giúp học sinh tháo gỡ; tránh quát mắng. Những em nào có biểu hiện tiến bộ, giáo viên cần động viên khuyến khích kịp thời để các em thêm hứng thú và phấn khởi, vươn lên trong học tập. Giáo viên cần cởi mở, kiên trì và tôn trọng sự sáng tạo của các em; trong giờ học phải chú ý đến nhiều đối tượng, đảm bảo có nhiều em được luyện đọc trong một tiết tập đọc. Thành lập nhóm bạn giúp đỡ nhau về học tập cũng là cách để nâng cao khả năng đọc diễn cảm của các em. Phân công những em đọc tốt kèm những em đọc chưa tốt. Bên cạnh đó cần tạo ra không khí sôi nổi trong giờ tập đọc bằng các hình thức: Thi đọc diễn cảm trong giờ học, hay thi đọc thơ; kể chuyện; thi hùng biện theo chủ đề 8/3; 26/3; 20/11;. (khi tổ chức các cuộc thi cần lưu ý đến sự đồng đều giữa các đối tượng; nghĩa là không chọn những em đọc tốt thi với những em đọc chưa tốt). Sau mỗi đợt thi đua và mỗi học kỳ cần tiến hành phân loại học sinh để xem quá trình cải tiến về cách đọc của các em tiến bộ đến mức nào, nhóm “đọc tốt” tăng lên bao nhiêu em, nhóm “đọc khá tốt” bao nhiêu em và nhóm “đọc được” còn lại những em nào, để tập trung kèm cặp giúp đỡ những 15 TIEU LUAN MOI download : skknchat123@gmail.com Powered by TCPDF (www.tcpdf.org)
Xem thêm Rút gọn
Bạn đang xem trước 15 trang tài liệu, để xem tài liệu hoàn chỉnh vui lòng click vào nút Download ở dưới.
Số trang: 26 | Định dạng: pdf | Người đăng: Tài Liệu Full | Ngày: 06/08/2023
Tên tài liệu | Định dạng | |
---|---|---|
Sáng kiến kinh nghiệm một số biện pháp rèn đọc diễn cảm cho học sinh lớp 5 | ||
Sau khi tải tài liệu, Quý khách có thể chuyển đổi file tài liệu từ PDF sang WORD miễn phí tại đây | ||
Từ khóa: |