ỉ là nhu cầu của con người mà còn là nguồn gốc tại ra của cải, vật chất trong xã hội. Việc làm có vai trò quan trọng trong việc ổn định tình hình kinh tế - xã hội, là giải pháp để xóa đói giảm nghèo, là cách thức để thông qua đó người lao động tích cực tham gia và khẳng định sự đóng góp của mình đối với sự phát triển của đất nước. Tuy nhiên, hiện nay vấn đề việc làm đang là nhu cầu bức thiết của nhiều quốc gia, đặc biệt là những quốc gia đang phát triển, nơi mà có nguồn nhân lực dồi dào trong khi nền kinh tế phát triển chưa cao, do đó sẽ không có sự tương xứng về cung – cầu lao động trong phạm vi một nước. Vấn đề việc làm luôn được quan tâm cho mọi nguồn nhân lực, đặc biệt chú trọng nhất là nguồn nhân lực có trình độ đại học – cao đẳng. Trong thời gian gần đây, việc làm trở nên khó tìm do nhiều nguyên nhân, trong đó có tình hình hoạt động sản xuất, kinh doanh có nhiều khó khăn, nhu cầu tuyển dụng lao động bị thu hẹp. Đối với các cơ quan, tổ chức nhà nước, nhu cầu tuyển dụng công chức, viên chức ngày càng có yêu cầu cao hơn về chất lượng và có nơi thừa về số lượng. Không chỉ đối với các trường đại học (ĐH) ngoài công lập, ngay cả các trường đại học công lập có danh tiếng, không phải sinh viên tốt nghiệp (SVTN) ra trường đều có việc làm. Một nguyên nhân khác, việc có thêm nhiều cơ sở đào tạo (trường cao đẳng, đại học) ra đời dẫn đến số lượng sinh viên (SV) được đào tạo ở cùng các ngành, chuyên ngành ngày càng nhiều, cung vượt cầu. Về chủ quan, việc có được việc làm hay không, liên quan rất nhiều đến phẩm chất, năng lực, trình độ, kỹ năng của người được đào tạo. Thực tế cho thấy, số lượng ứng viên đăng ký dự tuyển hàng năm để tìm việc làm khá đông, song kết quả số người đáp ứng được yêu cầu của nhà tuyển dụng còn rất hạn chế. Các doanh nghiệp, cơ quan muốn tuyển chọn những sinh viên tốt nghiệp tốt về trình độ tay nghề, kỹ năng mềm và trình độ ngoại ngữ trong khi sinh viên ngồi trên ghế nhà trường ít khi chủ động trang bị cho mình những kỹ năng đó. Tình trạng thừa thầy thiếu thợ vẫn xảy ra trong xã hội hiện nay. Trước những thách thức nêu trên, đòi hỏi các cơ sở đào tạo và bản thân người học (sinh viên) phải có cách nhìn nhận mới về vấn đề việc làm sau khi tốt nghiệp ra trường. Chiến lược phát triển giáo dục 2011-2020 của Chính phủ đã xác định mục tiêu đào tạo của giáo dục đại học là: “Đào tạo ra những con người có năng lực sáng tạo, tư duy độc lập, trách nhiệm công dân, đạo đức và kỹ năng nghề nghiệp, năng lực ngoại ngữ, kỷ luật lao động, tác phong công nghiệp, năng lực tự tạo việc làm và khả năng thích ứng với những biến động của thị trường lao động.”. (Số 711/QĐ-TTg: Quyết định phê duyệt “Chiến lược phát triển giáo dục 2011-2020”) Kết quả đạt được là quan trọng, song chưa vững chắc và chưa đạt được yêu cầu như mong muốn. Vẫn còn một bộ phận sinh viên chưa có việc làm mà trong đó có trong nguyên nhân là do các em chưa đạt yêu cầu về chuẩn đầu ra, nhất là về ngoại ngữ, tin học; mặt khác khả năng tự tạo việc làm, sự năng động, thích ứng của sinh viên với yêu cầu của nhà tuyển dụng cũng còn hạn chế, tất nhiên không loại trừ yếu tố khách quan do nhu cầu tuyển dụng lao động không nhiều. Tuy nhiên, khi thế giới có sự xuất hiện của biến chủng virus viêm đường hô hấp cấp Sar-Ncovi 2 thì mọi lĩnh vực đều bị ảnh hưởng, kéo theo sự đi xuống của nhiều kinh tế, xã hội mất ổn định. Trong đó doanh nghiệp phải đóng cửa, nhiều hoạt động vui chơi giải trí phải tạm dừng thực hiện theo chỉ thị phòng chống dịch của Thủ Tướng Chính Phủ, đặc biệt là sự quá tải của hệ thống y tế khi đang tập trung gần như mọi nguồn lực để chống dịch khiến cho việc khám chữa bệnh thường ngày phải gián đoạn . Suốt 2 năm kể từ 2020 cho đến 2022, Việt Nam đã trải qua 4 đợt dịch của Covid-19, đến nay là đầu năm 2022, sự có mặt của biến chủng mới đã làm tăng số ca nhiễm lên tới hơn 80.000 ca/ngày trên cả nước, với Hà Nội là hơn 30.000 ca/ngày. Tuy vậy, cho dù theo chủ trương của Đảng, Nhà nước đây là giai đoạn thích ứng “bình thường mới” thì đây cũng là yếu tố không nhỏ ảnh hưởng tới việc có được việc làm đối với sinh viên sắp ra trường hiện nay. Chính vì những lí do trên, nhóm đã lựa chọn đề tài: “Thực trạng việc làm của sinh viên sau khi tốt nghiệp hiện nay” nhằm có cái nhìn thực tiễn, toàn diện và tổng thể về vấn đề. 3. Ý nghĩa của đề tài: Ý nghĩa lý luận của đề tài: Kết quả thu được của đề tài, góp phần, bổ sung, phát triển một số vấn đề về cơ sở lý luận của việc học online ở các sinh viên . Ý nghĩa thực tiễn của đề tài: Kết quả của đề tài có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu khoa học, giảng dạy, học tập và phục vụ các đề tài khác. 4. Lý thuyết sử dụng a) Lý thuyết lựa chọn hợp lý Lý thuyết lựa chọn hành vi hợp lý có nguồn gốc từ Kinh tế học, Triết học, và Nhân học vào thế kỉ VIII, XIX. Lý thuyết này gắn với tên tuổi của các nhà Xã hội học tiêu biểu như: G Homans, Peter Blau, James Coleman…Nội dung lý thuyết cho rằng con người luôn hành động một cách có chủ đích có suy nghĩ để lựa chọn và sử dụng các nguồn lực một cách hợp lý nhằm đạt kết quả tối đa với chi phí tối thiểu. Theo quan điểm của Homans ông đã diễn đạt theo kiểu định lý Toán học: Khi lựa chọn trong số các hành động có thể có, cá nhân sẽ chọn cách nào mà họ cho là tích của xác suất thành công của hành động đó đối với giá trị thành công của phần thưởng hành động đó là lớn nhất. Điều này có nghĩa ông nhấn mạnh đến sự tối ưu hoá. Ông đưa ra một số định đề cơ bản trong lý thuyết của mình: Phần thưởng, kích thích, giá trị, duy lý, giá trị suy giảm, mong đợi. Dựa vào những định đề đã nêu, Homans đã đưa ra quy tắc liên quan đến phần thưởng của họ tương xứng với việc đầu tư của họ. Định đề phần thưởng: Đối với tất cả các hành động của con người, hành động nào càng thường xuyên được khen thưởng thì càng có khả năng lặp lại. Định đề kích thích: Nếu một nhóm kích thích nào trước đây đã từng khiến cho hành động nào đấy được khen thưởng thì một nhóm mới càng giống kích thích đó bao nhiêu thì càng có khả năng làm cho hành động tương tự trước đây được lặp lại bấy nhiêu. Định đề giá trị: Kết quả của hành động có giá trị cao đối với chủ thể bao nhiêu thì chủ thể đó càng có xu hướng thực hiện hành động đó bấy nhiêu. Định đề duy lý: Cá nhân sẽ lựa chọn hành động nào mà giá trị của kết quả hành động đó và khả năng đạt được kết quả đó là lớn nhất. Định đề giá trị suy giảm: Càng thường xuyên nhận được một phần thưởng nào đó bao nhiêu thì giá trị của nó càng giảm đi bấy nhiêu đối với chủ thể hành động. Định đề mong đợi: Nếu sự mong đợi của con người được thực hiện thì người ta sẽ hài lòng, còn nếu không được thực hiện thì cá nhân sẽ bực tức, không hài lòng. Với những phần thưởng mang lại lợi nhuận cao và dễ thực hiện thì luôn được chủ thể lựa chọn và tiếp cận. Áp dụng lý thuyết vào vấn đề nghiên cứu ta thấy: trong bối cảnh kinh tế - xã hội khác nhau, sinh viên tốt nghiệp (SVTN) có những lựa chọn khác nhau cho công việc của mình. Một trong những lý do của sự lựa chọn phụ thuộc vào chế độ lương thưởng, môi trưởng làm việc,… b) Lý thuyết nhu cầu của Maslow Lí thuyết về thang bậc nhu cầu của Maslow là một trong các lí thuyết mà tầm ảnh hưởng của nó được thừa nhận rộng rãi và được sử dụng trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Trong lí thuyết này, ông sắp xếp các nhu cầu của con người theo một hệ thống trật tự cấp bậc và được thể hiện dưới dạng một hình kim tự tháp, trong đó, các nhu cầu ở mức độ cao hơn muốn xuất hiện thì các nhu cầu ở mức độ thấp hơn phải được thỏa mãn trước đó, trong đó: Nhu cầu cơ bản (basic needs): Được coi là quan trọng nhất vì nó đáp ứng nhu cầu sinh lí tối thiểu của con người như ăn uống, ngủ, mặc, không khí để thở, tình dục,… Maslow cho rằng, những nhu cầu ở mức độ cao hơn sẽ không xuất hiện khi những nhu cầu này không được thỏa mãn. Nhu cầu về an toàn, an ninh (safe, security needs): Khi con người đã được đáp ứng các nhu cầu cơ bản, tức các nhu cầu này không còn điều kiện suy nghĩ và hành động của họ nữa, họ sẽ nảy sinh nhu cầu về an toàn, an ninh. Con người mong muốn có sự bảo vệ cho sự sống còn của mình khỏi các nguy hiểm. Nhu cầu này sẽ trở thành động cơ hoạt động trong các trường hợp khẩn cấp, nguy đốn đến tính mạng như chiến tranh, thiên tai, gặp thú dữ,… Nhu cầu này cũng thường được khẳng định thông qua các mong muốn về sự ổn định trong cuộc sống, được sống trong các khu phố an ninh, sống trong xã hội có pháp luật, có nhà cửa an toàn để ở,… Nhiều người tìm đến sự che chở bởi các niềm tin tôn giáo cũng là do nhu cầu này, đây chính là việc tìm kiếm sự an toàn về mặt tinh thần. Các chế độ bảo hiểm xã hội, các chế độ khi về hưu, các kế hoạch để dành tiết kiệm tiền,… cũng chính là thể hiện sự đáp ứng nhu cầu an toàn này. Nhu cầu về xã hội (social needs): Nhu cầu này còn được gọi là nhu cầu mong muốn thuộc về một bộ phận, một tổ chức nào đó hoặc nhu cầu về tình cảm, tình thương. Nhu cầu này thể hiện qua quá trình giao tiếp như việc kết bạn, tìm người yêu, lập gia đình, tham gia một cộng đồng nào đó, đi làm việc, đi chơi picnic, tham gia các câu lạc bộ, làm việc nhóm,… Nhu cầu được quý trọng (esteem needs): Nhu cầu này còn được gọi là nhu cầu tự trọng vì nó thể hiện hai khía cạnh: Nhu cầu được người khác quý mến, nể trọng thông qua các thành quả của bản thân, và nhu cầu của bản thân, và nhu cầu cảm nhận, quý trọng chính bản thân, danh tiếng của mình, có lòng tự trọng, sự tự tin vào khả năng của bản thân. Sự đáp ứng và đạt được nhu cầu này có thể khiến cho một đứa trẻ học tập tích cực hơn, một người trưởng thành cảm thấy tự do hơn. .
Xem thêm Rút gọn
Bạn đang xem trước 5 trang tài liệu, để xem tài liệu hoàn chỉnh vui lòng click vào nút Download ở dưới.
Số trang: 16 | Định dạng: pdf | Người đăng: Lý Dương | Ngày: 04/07/2023
Tên tài liệu | Định dạng | |
---|---|---|
Tiểu luận Xã hội học kinh tế Thực trạng việc làm của sinh viên sau khi tốt nghiệp hiện nay (Nghiên cứu trường hợp sinh viên Học Viện Báo Chí và Tuyên Truyền) | ||
Sau khi tải tài liệu, Quý khách có thể chuyển đổi file tài liệu từ PDF sang WORD miễn phí tại đây | ||
Từ khóa: |