hành kiến/ Định kiến và phân biệt đối xử. Prejudice and Discrimination.3 A. Thành kiến/ Định kiến 4 I/ Thành kiến/ Định kiến là gì? 5 II/ Nguồn gốc của Thành kiến/ Định kiến7 III/ Nguyên nhân của thành kiến/ Định kiến.9 IV/ Ảnh hưởng của Thành kiến/ Định kiến tới xã hội10 V/ Thành kiến phát triển như thế nào?.11 VI/ Tại sao lối suy nghĩ khuôn mẫu vẫn tồn tại mặc cho những ch ứng c ứ khách quan được đưa ta rõ rành rành?15 B. Phân biệt đối xử 20 I/ Phân biệt đối xử là gì?. 21 II/ Nguồn gốc của Phân biệt đối xử.22 III/ Nguyên nhân dẫn đến việc Phân biệt đối xử24 IV/ Ảnh hưởng của việc Phân biệt đối xử tới xã hội25 C. Danh mục tài liệu tham khảo :.26 D. Lời cảm ơn. 27 2 Đề bài : Thành kiến/ Định kiến và phân biệt đối xử. Prejudice and Discrimination Thành kiến, sự phân biệt đối xử và lối suy nghĩ khuôn mẫu tồn tại trong bất cứ nhóm xã hội nào. Các nhà tâm lý học quan tâm đến nguồn gốc, nguyên nhân và ảnh h ưởng của những nhóm thái độ này và sự tác động của phân nhóm xã hội. Thành kiến phát triển như thế nào? Tại sao lối suy nghĩ khuôn mẫu vẫn tồn tại mặc cho những chứng cứ khách quan được đưa ta rõ rành rành? Đây chỉ là một số câu h ỏi mà các nhà khoa học đang đi tìm kiếm câu trả lời. 3 A. Thành kiến/ Định kiến 4 I/ Thành kiến/ Định kiến là gì? Trước khi trả lời cho câu hỏi trên. Mình xin được kể một câu chuyện v ừa m ới x ảy ra vào dịp Tết Nguyên Đán vừa qua mà mình đã gặp phải. Đó là vào sáng ngày mùng 4 Tết, nhà mình tiếp đón 2 vị khách đó là bạn của mẹ mình và con gái c ủa cô ấy. Lúc mình mang đĩa hoa quả ra mời hai người thì con gái của cô ấy từ chối không ăn. Em trai mình và mình có hỏi tại sao lại không ăn thì cô bé ấy thốt lên: “Vì anh B ảo b ị Bê Đê (một từ ngữ khiếm nhã để ám chỉ người đồng tính) nên em không ăn đâu! Em sợ bị lây bệnh Bê Đê của anh Bảo lắm!” Thú thực là khi đó mình hơi shock. Shock là vì phải rất lâu rồi mình mới bị r ơi vào m ột tình huống mà nó gợi lại quá khứ đau buồn và đen tối trong cuộc đ ời c ủa mình khi mình còn bé. Từ khi mình còn bé, có khá nhiều phụ huynh trong xóm đã cấm con cái của họ lại gần, tiếp xúc và chơi đùa với mình chỉ vì hành động của mình h ơi đi ệu và ẻo lả. Họ nói với con của họ không được tiếp xúc kẻo sẽ bị nhiễm bệnh “ái nặng” đó của mình. Nhưng đó là câu chuyện từ khi mình còn nhỏ. Lúc mình nghe những đ ứa b ạn trong xóm của mình từ chối cho mình chơi cùng và đưa ra lý do nh ư v ậy, khi đó mình cũng chỉ hơi buồn, hơi tủi và những lúc như thế mình chỉ biết quay vào nhà ch ứ cũng ch ả dám tâm sự với ai hay đấu tranh lại cho bản thân. Giờ lớn hơn, trưởng thành h ơn, hi ểu biết hơn, biết suy nghĩ hơn thì mình cũng đã tự biết cách để giải quy ết mỗi khi r ơi vào những tình huống như thế và cũng đã tự biết đấu tranh, bảo vệ lại cho b ản thân mình. Cho nên khi nghe cô bé đó nói như vậy, bản thân mình chỉ c ảm thấy h ơi shock vì không nghĩ đến ngần này tuổi rồi, mình vẫn còn bị gặp phải tình huống như th ế. Mình cũng không có làm ầm ĩ mọi chuyện lên, mình chỉ hy vọng sau này nếu có c ơ hội mình sẽ được tâm sự với cô bé để cô ấy hiểu được và xóa bỏ thành kiến đã hằn sâu vào ti ềm thức của cô bé. Hoặc mình hy vọng sau này lớn lên, khi lĩnh hội đ ược nhi ều đi ều trong cuộc sống, cô bé ấy sẽ trưởng thành hơn cả về suy nghĩ lẫn hành động và l ời nói. Quay trở lại với câu hỏi, thành kiến là gì? Định kiến hoặc thành kiến là những ý kiến, quan điểm đã được hình thành, trước khi nhận thức các dữ kiện có liên quan hoặc biết rõ những thông tin liên quan c ủa một sự kiện cụ thể. Từ Định kiến thường được sử dụng để miêu tả những nếp suy nghĩ, quan điểm thường không thuận lợi, đánh giá chủ quan đối với người hoặc một nhóm người, bởi vì giới tính, quan điểm chính trị, quan hệ xã hội, tuổi tác, tôn giáo, chủng tộc/dân tộc, ngôn ngữ, quốc tịch, hình dáng bên ngoài hay là đặc điểm cá nhân khác, từ đó dẫn đến việc phân biệt đối xử. 5 Thường là trong ngôn ngữ dân gian, định kiến và thành kiến thường đi chung v ới nhau, và đôi khi cùng được sử dụng với ý nghĩa như nhau. Tuy nhiên có thể phân bi ệt: đ ịnh kiến là ý nghĩ cố định về người hay vật, xuất phát từ cách nhìn sai l ệch ho ặc d ựa trên cảm tính và thường xuyên có chiều hướng đánh giá thấp; thành kiến là những đ ịnh kiến (nghĩa là cái "ý kiến" đã "thành" sẵn rồi) xuất hiện trong thời gian dài, thành n ếp suy nghĩ cố chấp. Định kiến của một tập thể, một nhóm người, một xã hội, thường được gọi là định kiến xã hội. Định kiến, thành kiến, đôi khi cũng gọi là "thiên kiến". Định kiến của một người có thể hình thành từ môi trường giáo dục, môi trường sống và sinh hoạt, và quan hệ xã hội của người đó. 6 II/ Nguồn gốc của Thành kiến/ Định kiến Định kiến bắt nguồn từ sự bất bình đẳng xã hội Định kiến là một kiểu hợp lý hoá sự bất bình đẳng xã hội. Tại sao như v ậy? Trong b ất cứ xã hội nào cũng còn tại những đất vị xã hội bất ngang bằng. Địa vị xã h ội b ất ngang bằng đó vừa làm nảy sinh định kiến. Trong cấu trúc xã hội có tầng lớp chủ nô - nô l ệ, đất chủ - người làm công. dưới con mắt của những người thuộc tầng lớp giàu có, những người cùng kiệt khổ luôn bị coi là những kẻ lười biếng, thiếu hi ểu bi ết. M ột s ố tác giả cho rằng, trong xã hội có sự bất bình đẳng xã hội, định kiến đ ựợc sử d ụng nh ư một công cụ để chứng minh cho tính đúng đắn của người có trước bạc và có thế l ực. Cách đây bốn thập kỷ, nhà xã hội học Helen Mayer Hacker (1951) vừa phát bi ểu nh ững người da đen và những người phụ nữ là những người thuộc tầng lớp dưới. Họ có trí thông minh thấp, bằng lòng với vai trò phụ thuộc. Người da đen phải ở nh ững khu riêng biệt giành riêng cho họ, còn chỗ của những người phụ nữ là ở trong nhà, ở ch ỗ bếp núc. Ngày nay những quan điểm này vừa thay đổi rất nhiều. Chẳng hạn trong chiến tranh thế giới lần thứ II, người Nhật được gọi là những kẻ ranh mãnh, quỷ quy ệt, tàn ác. thì sau chiến tranh thế giới II và cho tới hết ngày nay họ lại được coi là nh ững ng ười thông minh, lanh lợi khiến cho tất cả người trên toàn thế giới phải khâm phục b ởi tinh thần học hỏi, tinh thần vượt khó và đặc biệt là lòng tự hào dân tộc c ủa h ọ. Định kiến xã hội bắt nguồn từ những biểu tượng xã hội Cuối năm 1947, nhà tâm lý học da đen Mamie Clack vừa ti ến hành m ột nghiên c ứu khá thú vị về biểu tượng xã hội ở trẻ em da đen Mỹ. Ông vừa nghiên cứu trên số l ượng l ớn trẻ em da đen từ 3 đến 7 tuổi. Nội dung thực nghiệm của ông như sau: Ông đ ưa ra hai loại búp bê da trắng và da đen. Ông yêu cầu các em trả l ời các câu h ỏi: "Búp bê nào x ấu nhất? Búp bê nào xinh nhất? Búp bê nào đáng yêu? Búp bê nào ngoan? Búp bê nào em chọn làm bạn? Búp bê nào màu đen?." Kết quả thu được từ thực nghiệm này nh ư sau: 90% số trẻ nhận dạng đúng màu của búp bê; Phần lớn số trẻ tham gia (nhà) th ực nghiệm đều thích chơi với búp bê màu trắng và cho rằng búp bê màu tr ắng t ốt h ơn búp bê màu đen, còn búp bê màu đen là xấu xí và đ ộc ác; 2/3 tr ẻ em da đen b ị các búp bê da trắng cuốn hút. Qua đó ông vừa rút ra một kết luận rằng đây là m ột s ự khinh miệt lạc hướng chống lại chính bản thân mình. Đây là công trình nghiên c ứu đầu tiên chứng minh sự giảm giá trị hình ảnh bản thâncoi nhưhậu quả của sự phân biệt đối x ử. Xã hội hoá và sự xuất hiện định kiến 7 Định kiến xuất hiện luôn gắn bó chặt chẽ với các hiện tượng xã hội hoá. Sự phát tri ển định kiến xã hội đi đôi với sự phát triển của các thái độ xã hội. Tr ước h ết đ ịnh ki ến quy định bởi môi trường gia (nhà) đình và đặc biệt khuôn mẫu do cha mẹ làm ra (t ạo) ra lúc đầu có vai trò như một hiểu biết quan trọng nhất cho đ ứa trẻ. Thông qua cha mẹ và người lớn, đứa trẻ có xu hướng lặp lại những gì mà cha mẹ và người l ớn v ừa dạy dỗ nó. Đứa trẻ học cách ứng xử xã hội bằng cách quan sát người khác và b ắt chước họ. Mối quan hệ này được Adormo và các cộng sự làm sáng tỏ năm 1950. Đ ầu tiên là s ự nghiên cứu về chủ nghĩa bài Do Thái nhằm tìm hiểu xem có những kiểu cá nhân đ ặc biệt bài Do Thái hay không. Các tác giả vừa nhận thấy rằng có một kiểu nhân cách đ ộc đoán bất chỉ là bài Do Thái, mà còn có biểu lộ ra là hằn thù và bài tr ừ t ất c ả nh ững nhóm dân tộc thiểu số khác. Những nghiên cứu về nhân cách độc đoán v ừa cho phép xác định sự xuất hiện của định kiến được bắt nguồn từ những năm đầu của cuộc đ ời. Khi đó trẻ em học được ở người lớn những suy nghĩ, nhìn nhận và đánh giá nh ững người xung quanh. Trong chừng mực nào đấy, có thể nói những gì cá nhân học đ ược t ừ bố mẹ là những cơ sở cho sự đánh giá mang tính quyền uy. Các yếu tố tiếp thu đ ược t ừ gia (nhà) đình đó có xu hướng trở nên bền vững và được củng cố thêm trong quá trình xã hội hoá cá nhân. 8 III/ Nguyên nhân của thành kiến/ Định kiến Người ta đã tổng hợp và phân loại các khái niệm gây nhiều tranh cãi đang t ồn t ại trên thế giới ngày nay và có tất cả khoảng 200 loại thành kiến. Dựa trên đó, có thể phân tích thấy 4 nhân tố chính ảnh hưởng tới việc nhận thức của chúng ta đối v ới nh ững khái niệm và vấn đề mới ở mọi lĩnh vực. 1. Có quá nhiều thông tin Nhân tố đầu tiên gây ra những định kiến trong nhận thức chính là vì có quá nhi ều thông tin trong vũ trụ này cho bất kỳ ai trong chúng ta xử lý. Con ng ười được ghi nh ận là có 5 giác quan, và chúng ta chỉ là một chấm nhỏ bé trong các không gian và h ệ th ời gian khổng lồ (các nhà khoa học cho rằng vũ trụ có tồn tại nhiều chi ều không gian ch ứ không chỉ là 3 chiều, thậm chí có tới 11 chiều không gian và đó chính là chìa khóa đ ể giải thích nhiều hiện tượng vật lý lẫn tâm linh chưa có lời giải hiện nay). Vì vậy, có rất nhiều thông tin ở ngoài kia (bên ngoài ngôi nhà của bạn, trên toàn Trái đất, trong thiên hà, trong vũ trụ hay thậm chí các vũ trụ song song và những khái ni ệm rộng lớn khác nữa mà loài người chưa thể nhận thức được) mà chúng ta đã bỏ l ỡ và sẽ tiếp tục bỏ lỡ. 2. Đánh giá thông tin chủ quan dựa nhiều trên quan ni ệm cũ đã hình thành Nhân tố thứ hai là quá trình biến thông tin thô thành một cái gì đó có ý nghĩa đòi h ỏi s ự kết nối giữa những thông tin rời rạc, hạn chế bạn tiếp cận được và các m ẫu hình v ề tinh thần, tín ngưỡng, biểu tượng hay các mối liên hệ mà bạn đã lưu trữ từ những kinh nghiệm trước đó. Kết nối các thông tin đơn lẻ là một quá trình chủ quan và d ựa trên nhi ều quan ni ệm đã hình thành trong cách suy nghĩ, trong hệ thống thước đo của bản thân mỗi người suốt cả cuộc đời trước đó. Kết quả là nhận thức mới của bạn chính là sự pha tr ộn c ủa thông tin mới và cũ. Câu chuyện mới của bạn đang được xây dựng từ chính các câu chuyện cũ của bạn, và chính vì thế nó sẽ luôn ẩn chứa những tính ch ất và k ết c ấu trong quá khứ mà có thể không thực sự đúng với thực tế khách quan. 3. Không có đủ thời gian và nguồn lực Nhân tố thứ ba chính là sự giới hạn của thời gian khiến vi ệc xem xét và phân tích kỹ lưỡng tất cả các khả năng để chắc chắn rằng chúng ta đang có những quyết đ ịnh đúng đắn, hành động đúng đắn trở nên khó thực hiện và được xem là không c ần thi ết. 4. Không có đủ bộ nhớ Vấn đề thứ 4 chính là sự giới hạn dung lượng bộ nhớ của não ng ười, ảnh h ưởng t ới khả năng lưu trữ tất cả các thông tin thô, tất cả các ý tưởng và sự di ễn đ ạt, cũng nh ư tất cả các quyết định trong quá khứ mà chúng ta đã thực hiện. Chúng ta ph ải có chi ến lược lựa chọn xem nên nhớ cái gì, loại bỏ những thông tin nào trong cu ộc s ống, đó là cách bộ não hoạt động. 9 IV/ Ảnh hưởng của Thành kiến/ Định kiến tới xã hội Định kiến xuất hiện luôn gắn bó chặt chẽ với các hiện tượng xã hội hoá. Sự phát tri ển định kiến xã hội đi đôi với sự phát triển của các thái đ ộ xã h ội. Tr ước h ết đ ịnh ki ến quy định bởi môi trường gia đình và đặc biệt khuôn mẫu do cha m ẹ t ạo ra lúc đ ầu có vai trò như một hiểu biết quan trọng nhất cho đứa trẻ. Thông qua cha m ẹ và ng ười lớn, đứa trẻ có xu hướng lặp lại những gì mà cha mẹ và người l ớn đã d ạy d ỗ nó. Đ ứa trẻ học cách ứng xử xã hội bằng cách quan sát người khác và b ắt ch ước h ọ. Mối quan hệ này được Adormo và các cộng sự làm sáng tỏ năm 1950. Đầu tiên là s ự nghiên cứu về chủ nghĩa bài Do Thái nhằm tìm hiểu xem có nh ững ki ểu cá nhân đ ặc biệt bài Do Thái hay không. Các tác giả đã nhận thấy rằng có một ki ểu nhân cách đ ộc đoán không chỉ là bài Do Thái, mà còn có biểu lộ ra là hằn thù và bài tr ừ t ất c ả nh ững nhóm dân tộc thiểu số khác. Những nghiên cứu về nhân cách độc đoán đã cho phép xác định sự xuất hiện của định kiến được bắt nguồn từ những năm đầu c ủa cuộc đ ời. Khi đó trẻ em học được ở người lớn những suy nghĩ, nhìn nhận và đánh giá nh ững ng ười xung quanh. Trong chừng mực nào đấy, có thể nói những gì cá nhân h ọc đ ược t ừ b ố mẹ là những cơ sở cho sự đánh giá mang tính quyền uy. Các yếu t ố ti ếp thu đ ược t ừ gia đình đó có xu hướng trở nên bền vững và được củng cố thêm trong quá trình xã h ội hoá cá nhân. Lấy ví dụ về sự mong muốn từ thời con trẻ của chúng ta về việc được đ ịnh v ị trên b ản đồ. Trẻ con được tham gia vào trò chơi thế giới của người lớn b ằng vi ệc có địa ch ỉ. Những đứa trẻ háo hức chứng tỏ mình là một thứ gì đó bằng cách đ ịnh v ị mình trên bản đồ: rằng mình đã bao nhiêu tuổi, học ở trường nào, là con ai, cháu c ủa aivv. Những định vị này hầu hết là các thuộc tính xã hội được xác l ập s ẵn và mang tính áp đặt. Đứa trẻ không mảy may nghi ngờ bởi những người khác cũng tin là như v ậy. Đ ứa trẻ bắt đầu dùng những định vị đấy để xác định mình là ai. Vi ệc đ ược xác đ ịnh mình là ai trong tấm bản đồ xã hội này cho chúng ta biết giới hạn của mình nằm ở đâu, và người ta kì vọng chúng ta những gì trong cuộc sống. Nếu xã hội đã xây dựng cho mỗi người một định vị riêng trong tấm b ản đồ, sẽ luôn có những lực lượng giữ cho chúng ta không dịch chuyển nhiều. Chúng ta tạm thời gọi những thế lực này là bảo vệ, canh gác. Phương thức thứ nhất mà Peter nói đ ến là ki ểm soát xã hội. Đây là phương thức khiến cho những người không tuân thủ bị c ưỡng ép phải theo xu hướng chung. Ở đây, phương thức kiểm soát bằng bạo lực là hình th ức nền móng nhất. Kể cả trong những nước dân chủ nhất thì phần kiểm soát an ninh bằng bạo lực là yếu tố không thể thiếu, vì dù gì đi chăng nữa nó v ẫn luôn là s ự ki ểm soát tối hậu và sau cùng. Phương thức kiểm soát thứ hai là về phương di ện kinh t ế. Berger dẫn ra ví dụ về hai lĩnh vực đó là giáo hội và các tr ường đ ại h ọc. Trong đó những người có xu hướng vượt quá những giới hạn chấp nhận được v ề sự lệch l ạc sẽ bị mất việc hoặc chuyển tới một vùng giáo dục hẻo lánh với mức lương tối thiểu. 10 Điều may mắn là chúng ta sẽ thấy nó xảy ra cực hiếm, vì có những hình thức ki ểm soát tinh vi và mang ảnh hưởng lâu dài hơn, mà không cần tới sự can thi ệp tr ực ti ếp đ ến thân thể và nguồn kiếm sống. Hình thức đó bao gồm sự kiểm soát c ủa nh ững c ơ ch ế thuyết phục, chế nhạo và dựng chuyện tầm phào. Điều này đặc biệt hiệu quả ở những nhóm nhỏ biết rõ về nhau. Những kẻ lệch lạc sẽ là trung tâm của những chủ đ ề được bàn tán. Những nỗi sợ của việc bị tẩy chay và bị từ chối bởi những người thân c ận với mình tạo ra áp lực cho cá nhân phải tự điều chỉnh mình theo xu hướng chung. Còn tồn tại một hệ thống kiểm soát mang tính thưởng phạt là sự phân tầng xã h ội, trong đó bao gồm quyền lực, đặc ân đặc lợi và sự uy tín. Trong đó đi ều đ ầu tiên c ần nói tới là hệ thống giai cấp, một phân tầng được quy định bởi tiêu chuẩn kinh t ế. T ất nhiên trong xã hội sự đi lên về mặt tài chính không chắc đã đ ồng nghĩa v ới vi ệc đ ược củng cố về sức mạnh và quyền lực. Tuy nhiên, việc sở hữu tài chính đăng kể làm tăng cơ may có được cuộc sống không chỉ hơn về lượng, tức là có được nhi ều quần áo nhà cửa hơn, mà còn có cơ hội sống khác về chất. Ví dụ về việc dựa trên số liệu thống kê về mặt tài chính của các hộ gia đình, chúng ta không chỉ d ự đoán s ở thích, tính cách, thiên hướng sự nghiệp và theo đuổi nghệ thuật của họ, mà còn xác định được c ả chặng đường tương lai của con cháu. Những người có tiền không những có thể chu cấp cho con mình điều kiện vật sống tốt hơn mà còn giúp con cái họ trải nghi ệm n ền giáo dục tốt hơn bằng cách đưa con đi du học hoặc tương tự. Ng ược l ại, nh ững ng ười ở giai cấp thấp trong xã hội phải chịu nhiều bất lợi về ph ương di ện xã h ội, kinh t ế, hoặc trong việc gây dựng các mối quan hệ. Kết luận rằng xã hội đã quy định cuộc sống của chúng ta một cách rất ngặt nghèo. Điều kiện tài chính, kinh tế c ủa gia đình chúng ta quyết định nền giáo dục mà chúng ta nhận được, những định hướng mà chúng ta có được từ khi còn nhỏ, mà vô hình chung chúng ta đồng hoá với nó và cho r ằng nó là thực tại. Trong quan điểm này, chúng ta có thể nhìn xã hội như một sự giam cầm. Chúng ta sở hữu một vài lựa chọn cố định mà xã hội đã cung c ấp s ẵn. Thông th ường chúng ta rất hiếm khi được thấy những lựa chọn hay những con đ ường khác so v ới những gì chúng ta đã được quy định từ khi còn nhỏ. Xã hội tạo ra s ự d ễ đoán trong tính cách con người bằng cách thu hẹp sự lựa chọn bằng bàn tay của quá khứ. V/ Thành kiến phát triển như thế nào? Chúng ta có ví dụ kịch bản về việc sử dụng sự tương phản trong d ự đoán con ng ười với xu hướng sử dụng các khuôn mẫu. Khuôn mẫu là một loạt các đặc điểm bất di bất dịch và tương đối đơn giản được áp dụng một cách kiên định đối v ới một số nhóm người: Đàn ông là những kẻ hiếu chiến và có khát v ọng tình d ục quá đ ộ; Đàn bà thường yếu đuối và nói nhiều; Những người béo thường vui vẻ và l ười bi ếng; Ng ười Hà Lan thường rất sạch nhưng bần tiện. Rập khuôn là một phần bình thường thuộc chức năng của chúng ta đơn giản hóa mọi thứ chút ít giúp chúng ta nắm đ ược t ất c ả 11 những sự phức tạp của đời sống xã hội. Sẽ ổn nếu như thực tế vẫn là tr ọng tài phân xử cuối cùng của sự thật. Nhưng không phải điều này lúc nào cũng đúng. D ưới đây là một vài cạm bẫy tiềm năng: 1. Khái quát hóa tổng quát: Lấy những đặc điểm gắn liền với một nhóm và gán chúng vào một cá nhân cụ thể trong nhóm đó. Một thành viên của một nhóm không nhất thiết phải phản ánh những đặc điểm liên quan đến nhóm đó, thậm chí n ếu nh ư nh ững đặc điểm đó có chính xác. Các vy phạm không cần ph ải đ ược g ắn m ột cách tri ệt đ ể; các chuẩn mực là điều hư cấu. Tác giả của các bạn là một người mập mạp, bởi th ế xin các bạn hãy cho phép tôi được lấy "những người béo" ra làm ví dụ: Chúng ta có lý do xác đáng để tin rằng những người béo là những người chậm chạp. Nh ưng tôi đã t ừng gặp những người béo có thể thắng đậm những người gầy trên sân quần vợt! Làm sao bạn có thể bị từ chối không được nhận vào làm chỉ bởi vì ngoại hình c ủa b ạn nói v ới người sử dụng lao động rằng bạn sẽ làm việc không có hiệu quả? 2. Khái quát hóa vội vã: Lấy những đặc điểm gắn liền v ới một ng ười và cho r ằng chúng đúng với tất cả các thành viên trong nhóm của anh ta hay cô ta. Chúng ta th ường xây dựng các khuôn mẫu của mình dựa trên những cơ sở mỏng manh, nông cạn nhất, chẳng hạn như: Thông tin nghe được từ người khác: Rất nhiều, nếu không muốn nói là hầu hết các hình mẫu được xây dựng trên điều mà chúng ta nghe người khác nói gia đình, th ầy cô giáo, bạn bè, phương tiện truyền thông của chúng ta, v.v. những ng ười này có th ể, trên thực tế lại nghe được từ những người khác. Ví dụ, bạn có khuôn mẫu về người Ả Rập từ đâu? Bạn đã từng thực sự gặp một người Ả Rập chưa? Nếu bạn đã bi ết h ọ, thì bạn biết họ rõ đến mức độ nào? Thông tin đã lỗi thời: Thậm chí nếu những thông tin nghe đ ược từ ng ười khác ch ứa đựng đôi chút sự thật, thì nó có thể được dựa trên những trải nghiệm có từ rất lâu rồi. Liệu những người Ả Rập còn hay liệu họ có sống trong những túp l ều n ữa không? Hay đó chỉ là những điều bạn đã nhìn thấy trong những thước phim cũ? Nhi ều khuôn mẫu được bắt rễ từ lòng căm ghét đối với những nhóm người định c ư cách đây 100 năm hay lâu hơn thế. Những ví dụ hạn chế: Khuôn mẫu là những thông tin nghe được từ người khác hay được dựa trên trải nghiệm cá nhân, nó cũng có thể được xây dựng dựa trên những tr ải 12 nghiệm hạn chế đối với những nhóm ta chưa thực sự hiểu rõ. Nếu bạn đã thực sự gặp một số người Ả Rập, thì bạn gặp được bao nhiêu người, và liệu họ có thể đ ại di ện cho tất cả những người Ả Rập hay không? Hay lấy đồ ăn Ý ra làm ví dụ: Hầu hết người Mỹ cho rằng đồ ăn c ủa Ý g ồm có mì s ợi, dầu ô-liu, và nước sốt cà chua; nhưng trên thực tế phần lớn đồ ăn c ủa Ý là bánh mỳ, cá, bơ và nước sốt trắng. Hầu hết những người Ý nhập cư đến Mỹ đều đến từ mi ền Nam Ý, và đó là "ví dụ" về cách thức nấu ăn mà họ quen. Tính chất mạnh: Điều gì là đáng chú ý nhất về một nhóm, đi ều gì khi ến chúng khác biệt hơn so với bản thân chúng ta hay những người khác thì thường được xem xét một cách sai lầm là "bình thường". Người Ả Rập là những người giàu có nhờ dầu mỏ, ng ười Hà Lan đi những đôi giày bằng gỗ, thổ dân da đỏ mặc những đồ b ằng lông . t ất c ả những điều này là ngoại lệ, nhưng bởi vì chúng đặc biệt, nên chúng d ễ dàng đ ược chúng ta nghi nhớ. Những người ở quần đảo Pô-li-nê-di là những người dâm dục, người Nhật c ực kỳ l ịch sự . thậm chí ngay cả khi các đặc điểm đó chứa đựng một phần nhất đ ịnh s ự th ật thì chúng thường che giấu những đặc điểm khác, những đặc điểm cũng đúng tương tự. Ví dụ, người ở quần đảo Pô-li-nê-đi có một số quy định khá nghiêm khắc v ề sự vừa phải, điều độ, và người Nhật Bản có thể rất thẳng tính, thậm chú hung dữ khi làm vi ệc v ới những người ngoài. 3. Những kết luận không công bằng: Chúng ta bổ sung thông tin mà những thông tin đó không hay đã không có ở đó. Các kết luận từ những quan sát mà chúng ta có thể đưa ra trong xã hội riêng của chúng ta có thể hoàn toàn không liên quan gì khi chúng ta nhìn vào xã hội khác. Ví dụ, trong xã hội của chúng ta, tắm một lần một tu ần đ ược coi là bẩn, và bẩn được xem là hành động phản xã hội, và phản xã hội là r ất, rất x ấu. Nh ưng liệu chúng ta có quyền đưa ra những sự suy diễn như thế không? Liệu b ẩn có nghĩa là xấu không? Một số nền văn hóa coi chúng ta là hơi bẩn: Ví dụ, người Nhật B ản lau r ửa bản thân sạch sẽ trước khi bước vào bồn tắm. Hay lấy một ví dụ khác, ở ngoại ô qu ần áo rách rưới có thể có nghĩa là mắc chứng bệnh tâm thần, nhưng ở nơi khác nó có nghĩa là nghèo khổ. Những kết luận không công bằng thường bắt nguồn từ sự thiếu hiểu biết: Chúng ta ít khi có tất cả những thông tin mà chúng ta cần để hiểu nhóm người khác. Th ường có 13 những lý do cho những hành vi cư xử "kỳ dị", những lý do này khi ến cho nh ững hành vi đó ít kỳ dị hơn. Ví dụ, ở một số quốc gia, họ không có nhi ều n ước và s ự khô ráo làm bay hơi hầu hết mồ hôi của chúng ta. Ở những nước nghèo, đường ống dẫn nước và nước sạch không có mấy. Ở những nước hàn đới, việc tắm là hết sức nguy hi ểm. Chúng ta quên mất rằng ông bà của chúng ta ít khi tắm nhi ều h ơn m ột tu ần m ột l ần. Hơn nữa, ở nhiều nơi, mọi người không có thái độ quá căng thẳng đối với mùi c ơ thể -bạn không cần phải khử trùng để trở nên sạch sẽ. Ở đây cũng xuất hiện vấn đề về việc dự báo sự hoàn thành ước nguyện của chính mình: Mọi người thường trở thành những người mà chúng ta mong muốn họ trở thành. Ví dụ đối với một người béo, trở nên "vui vẻ" có thể có nghĩa là s ự chấp nh ận. Đối với một số nhóm người dân tộc, bạn thể hiện niềm hãnh diện c ủa mình b ằng cách cường điệu "tính cách sắc tộc" của mình. Ví dụ, thổ dân da đ ỏ c ủa nh ững b ộ l ạc khác nhau tiếp nhận cách ăn mặc, tục lệ và nghệ thuật của nhau. Và chỉ ng ười Mỹ gốc Hà Lan mới treo những đôi giày gỗ trên cửa ra vào của họ. Chẳng còn nghi ngờ gì nữa, chúng ta gặp vấn đề do tất cả những cái b ẫy nêu trên đ ối với những điều bình thường được coi như khuôn mẫu. 14 VI/ Tại sao lối suy nghĩ khuôn mẫu vẫn tồn tại mặc cho những chứng cứ khách quan được đưa ta rõ rành rành? Sự phá vỡ công việc hàng ngày: Những người "khác" bạn có thể phá v ỡ cuộc s ống c ủa bạn. Ví dụ, ở miền quê nước Anh, mọi người đặc biệt không thích dân gíp-xi. Dân gípxi vào làng quê yên bình ở Anh, trên những chiếc xe van, đậu ở lề đ ường, sống bên ngoài những chiếc xe goòng, chơi nhạc và nhảy múa, bán sức lao động của họ, bói toán, ăn cắp. và nói chung là họ khiến cho cuộc sống làng quê trở nên rối lo ạn. Một ví dụ đơn giản nhất: Những người "mắc bệnh tâm thần" thường khiến chúng ta căng thẳng, lo lắng. Họ cư xử theo cách mà chúng ta không thể đoán trước đ ược. Đe dọa đến sự an toàn của nhóm: Những kẻ ngoài cuộc có thể đe dọa sự an toàn c ủa nhóm nhiều hơn việc là chỉ đe dọa đến sự yên bình và tĩnh l ặng. Ch ẳng h ạn nh ư những người gíp-xi, họ nổi tiếng ít nhất là về những rắc rối do h ọ gây ra. Nh ững lao động nhập cư ở Châu Âu có thể mang theo các thói quen văn hóa b ạo lực cùng v ới h ọ. Những đứa trẻ ở thành phố có thể mang những thói quen sinh hoạt tình dục b ừa bãi của chúng về vùng ngoại ô, v.v Chúng ta đã hiểu rằng trong khi một số nỗi sợ hãi có thể b ắt nguồn d ựa trên các khuôn mẫu vô căn cứ, thì một số nỗi sợ hãi lại có căn c ứ. Động c ơ để có nh ững nhóm của riêng chúng ta là nhằm để có cuộc sống an toàn, đơn giản, có thể đoán trước đ ược, những kẻ ngoài cuộc có thể đe dọa đến trật tự xã hội đó. Đe dọa đến túi tiền: Tình trạng khỏe mạnh về kinh tế là mối quan tâm ch ủ y ếu c ủa hầu hết mọi người. Những người bị đe dọa về kinh tế bởi những người ngoài rất tức giận về việc đó, Trong lịch sử, chúng ta thấy. 1. Thành lập những nhóm để chống lại những nhóm mới; 2. Những nhóm nhập cư cũ chống lại những nhóm nhập cư mới hơn; 3. Những người da trắng nghèo khổ ở miền nam cũ chống lại những người da đen nghèo khổ; Những người thợ đường sắt Ai Len chống lại những người thợ đ ường sắt Trung Quốc; 15 .
Xem thêm Rút gọn
Bạn đang xem trước 15 trang tài liệu, để xem tài liệu hoàn chỉnh vui lòng click vào nút Download ở dưới.
Số trang: 27 | Định dạng: pdf | Người đăng: Lý Dương | Ngày: 04/07/2023
Tên tài liệu | Định dạng | |
---|---|---|
Tiểu luận Tâm lý học xã hội Thành kiến Định kiến và phân biệt đối xử, Prejudice and Discrimination | ||
Sau khi tải tài liệu, Quý khách có thể chuyển đổi file tài liệu từ PDF sang WORD miễn phí tại đây | ||
Từ khóa: |