i ở Liên bang Nga 9 1.3.2. Sự biến đổi của QHSH đất đai và hình thức kinh doanh nông nghiệp ở một số nước Đông Âu 13 1.3.3. Các hình thức kinh doanh nông nghiệp trong nền kinh tế chuyển đổi Chương II. Ý nghĩa và định hướng vận dụng cho Việt Nam 2.1. Ý nghĩa. 14 17 2.1.1. Về xác định mục tiêu của cải cách ruộng đất 17 2.1.2. Về xây dựng thể chế của cải cách ruộng đất 17 2.1.3. Chú trọng phát triển khoa học&công nghệ, chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp . 18 2.1.4. Về hình thành và phát triển những chủ thể và hình thức kinh doanh mới trong nông nghiệp 18 2.1.5. Về chính sách hỗ trợ sản xuất nông nghiệp của nhà nước trong quá trình chuyển đổi 19 2.2. Định hướng vận dụng cho Việt Nam khi nghiên cứu quan hệ sản xuất nông nghiệp trong các nền kinh tế chuyển đổi. 21 TÀI LIỆU THAM KHẢO 30 1 MỞ ĐẦU Những thập niên cuối cùng của TK XX các nước khu vực Trung- Đông Âu và Châu Á đã diễn ra quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường của hơn 30 nước trên thế giới. Quá trình chuyển đổi ấy với nhiều nội dung khác nhau trong đó một trong những nội dung quan trọng là chuyển đổi kinh tế nông nghiệp trong nền kinh tế chuyển đổi. Việt Nam bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội xuất phát điểm từ một nước nông nghiệp nghèo nàn lạc hậu. Đại bộ phận dân số sống ở nông thôn và làm nông nghiệp, số hộ nghèo ở nông thôn còn nhiều, chênh lệch về thu nhập và mức sống giữa nông thôn và thành thị ngày càng lớn cản trở sự phát triển kinh tế xã hội, làm phát sinh nhiều tiêu cực, tệ nạn trong xã hội. Vì vậy, có thể nói chuyển đổi kinh tế nông nghiệp là vô cùng cần thiết. Đó cũng là lý do tại sao tác giả lại chọn đề tài: “Quan hệ sản xuất nông nghiệp trong nền kinh tế chuyển đổi. Ý nghĩa và định hướng vân dụng cho Việt Nam” làm tiểu luận. Trên cơ sở lý luận về kinh tế chuyển đổi, đặc thù của quan hệ sản xuất nông nghiệp học viên rút ra ý nghĩa và định hướng vận dụng của Việt Nam. Phương pháp nghiên cứu được sử dụng chủ yếu của đề tài là các phương pháp nghiên cứu của khoa học chuyên ngành kinh tế chính trị như trừu tượng hóa khoa học, logic kết hợp lịch sử, phân tích, thống kê. Đồng thời dựa trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác – Lênin như: duy vật biện chứng, duy vật lịch sử và các quan điểm đường lối phát triển kinh tế của Đảng Cộng sản Việt Nam và một số phương pháp nghiệp vụ khác nhằm phân tích và làm rõ hơn những vấn đề lý luận và thực tiễn . 2 Chương I. QUAN HỆ SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP TRONG NỀN KINH TẾ CHUYỂN ĐỔI 1.1. Quan niệm về nền kinh tế chuyển đổi Những thập niên cuối cùng của thế kỷ XX được ghi dấu bởi sự xuất hiện dạng đặc thù kinh tế – nền kinh tế quá độ, gắn với sự chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa sang nền kinh tế thị trường diễn ra trong nhiều nước đã từng lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa với mô hình nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung. Được áp dụng và thực hiện ở Liên Xô, một số nước Đông Âu, Trung Quốc, Bắc Triều Tiên, Cu Ba, Lào, Việt Nam và một số nước thuộc thế giới thứ ba. Quá trình chuyển đổi mô hình kinh tế đã chịu ảnh hưởng mạnh bởi các điều kiện kinh tế xã hội của mỗi nước. Do điều kiện mỗi nước khác nhau nên quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang kinh tế thị trường của mỗi nước cũng được áp dụng mô hình kinh tế chuyển đổi khác nhau. Chẳng hạn Liên Bang Nga và một số nước Đông Âu, Nam Tư thực hiện quá trình chuyển đổi kinh tế nhanh hơn và quyết liệt hơn. Trung Quốc và Việt Nam thực hiện quá trình chuyển đổi theo từng giai đoạn, từng bước, từng thời kỳ nhất định. Từ đó hình thành những nền kinh tế chuyển đổi là nền kinh tế chuyển từ mô hình nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang mô hình mô hình kinh tế thị trường trên cả hai phương diện lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Nền kinh tế chuyển đổi, xét về bản chất nội dung là tình trạng đặc biệt và hình thức đặc thù của sự thay đổi của hệ thống kinh tế - xã hội trong thời kỳ quá độ từ nấc thang cũ sang nấng thang mới. Nền kinh tế chuyển đổi đặc trưng như là tình trạng “trung gian”, “giao thời” từ hệ thống kinh tế - xã hội cũ sang hệ thống kinh tế - xã hội mới. Đây cũng là thời kỳ của những chuyển đổi cách mạng, bước ngoặt, những cải tạo gốc rễ của cả đời sống xã hội và tư tưởng… Nó chịu sự tác động mạnh mẽ của các nhân tố bên ngoài hệ thống và 3 các quy luật nằm ngoài hệ thống, để có thể chuyển sang hệ thống kinh tế - xã hội mới. Vì vậy, vai trò “bà đỡ”, “mở đường” của các thành tố tư tưởng, chính trị, chính sách. (thuộc kiến trúc thượng tầng) có ảnh hưởng mạnh trong nền kinh tế chuyển đổi. Quá trình chuyển đổi kinh tế còn là một thời kỳ lịch sử lâu dài, phức tạp và đa dạng. Ở đó diễn ra sự hình thành và phát triển của hệ thống KH – XH mới và sự suy tàn của hệ thống kinh tế – xã hội cũ. 1.2. Đặc thù quan hệ sản xuất nông nghiệp trước chuyển đổi Có lẽ không ở đâu trên thế giới, nông dân được tổ chức chặt chẽ như ở các nước xã hội chủ nghĩa trước đây với cả mục tiêu quản lý chính trị và kế hoạch hóa kinh tế. Tại Liên Xô, chương trình tập thể hóa bắt đầu từ năm 1929 đến 1937, có 99% nông dân đã trở thành nông trang viên và nông trường viên. Trong quá trình phát triển, rất nhiều nông trang tập thể chuyển dần cung cách quản lý sang hình thức nông trường với đời sống và cung cách làm việc như công nhân nông nghiệp. Mặc dù quy mô các đơn vị này rất lớn, được đầu tư trang bị và kết cấu hạ tầng lớn từ ngân sách chính phủ, nhân viên được hưởng chế độ lương và phúc lợi xã hội, nhưng cách quản lý này không còn phù hợp với sản xuất nông nghiệp. Có thể nói các nước có nền kinh tế chuyển đổi thực hiện ở lĩnh vực nông nghiệp rất khó khăn trong việc áp dụng cơ chế kinh tế thị trường trong hai lĩnh vực nhạy cảm là lương thực và đất đai. Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội đã hình thành tổ hợp kinh tế nông – công nghiệp với ba lĩnh vực cơ bản: chế tạo máy cho sản xuất nông nghiệp, công nghiệp thực phẩm; công nghiệp hóa chất, sản xuất thức ăn chăn nuôi; hệ thống dịch vụ nông nghiệp, tưới tiêu; trồng trọt, chăn nuôi, lâm nghiệp, thủy sản; công nghiệp chế biến, vận chuyển, bảo quản, tiêu thụ nông sản. 4 Thực tiễn cho thấy, Liên Xô, Cộng Hòa Dân Chủ Đức, Tiệp Khắc là những nước chủ nghĩa xã hội có nền kinh tế kỹ thuật hiện đại nhất trong các nước chủ nghĩa xã hội . Đặc biệt là Liên Xô đã cung cấp cho các nước chủ nghĩa xã hội khác những tư liệu sản xuất và tư liệu sinh hoạt, các thiết bị máy móc, quặng sắt, than, dầu, lương thực, thực phẩm, vay vốn với lãi suất thấp… tạo điều kiện cho các nước xây dựng chủ nghĩa xã hội . Bởi vì, các nước chủ nghĩa xã hội còn lại đều xuất phát từ nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, sản xuất nhỏ là phổ biến. Hình thành hệ thống đào tạo nhân lực cho tổ hợp này với xu hướng giảm về tỷ trọng. Trong thời kỳ chuyển đổi kinh tế cần cải cách quan hệ sở hữu, trước hết về đất nông nghiệp Trước chuyển đổi quan hệ sản xuất nông nghiệp dựa trên sở hữu nhà nước về đất đai và tập thể về những tư liệu sản xuất khác, xóa bỏ quan hệ thị trường, các chủ thể kinh doanh chủ yếu là nông trường, hợp tác xã , nông trang. Liên Xô và Mông Cổ thực hiện quốc hữu hóa ruộng đất để xây dựng nông trường; chỉ dành một phần nhỏ 14% chia cho nông dân sử dụng, chứ không có quyền sở hữu.Còn các nước: Chdc Đức, Ba Lan, Trung Quốc, Việt Nam thì tiến hành cải cách ruộng đất . Nghĩa là, sau khi xóa bỏ chế độ sở hữu ruộng đất của địa chủ thì đem chia ruộng đất cho nông dân vừa sở hữu vừa sử dụng, đáp ứng yêu cầu: “người cày có ruộng”. Để nâng cao trình độ kỹ thuật của sản xuất ở Liên Xô đã thành lập những trạm máy kéo hỗ trợ nông trang. Sở hữu tập thể thể hiện phi hiệu quả, trong khi kinh tế trang trại ở các nước Tư bản công nghiệp phát triển lại có hiệu quả. * Về cơ chế kinh tế hợp tác hóa - Hợp tác hóa ở các nước tư bản công nghiệp chỉ thực hiện ở các khâu đầu vào và đầu ra của sản xuất. Hợp tác hóa ở các nước chủ nghĩa xã hội thực hiện từ khâu đầu đến khâu cuối dưới sự chỉ đạo của nhà nước, chính quyền địa phương thông qua công cụ kế hoạch hóa tập trung cao độ, với nhiều chỉ tiêu pháp lệnh, mệnh lệnh về: sản xuất , sản lượng, chủng loại; phân phối, 5 trao đổi, giá thu mua, tiền công và tiêu dùng trong toàn xã hội cũng như từng ngành, từng lĩnh vực. trong thời kỳ này, các quan hệ hàng hóa – tiền tệ bị coi nhẹ hoặc bị phủ nhận; nền kinh tế mang tính trao đổi hiện vật trực tiếp; hạch toán kinh tế được thực hiện, nhưng mang tính chất hình thức; => cơ chế kinh tế hợp tác quản lý theo chế độ tập trung quan liêu, báo cấp được thực hiện phổ biến. Do đặc điểm lịch sử cụ thể của mỗi nước khác nhau nên quá trình hợp tác hóa ở các nước cũng khác nhau: đối với các nước đã xây dựng cơ bản kết cấu kinh tế – xã hội nhất định, công nghiệp hóa cơ bản (Như Liên Xô , CHDC Đức, Tiệp Khắc), thì hợp tác hóa thường gắn với cơ giới hóa. Đối với các nước xuất phát từ nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu (Trung Quốc, Chdcnd Triều Tiên, Việt Nam), thì hợp tác hóa được tiến hành trước cơ giới hóa, song song với thủy lợi hóa, cải tiến kỹ thuật… + Về hình thức hợp tác hóa nông nghiệp: Liên xô và một số nước Đông Âu có hình thức tổ cày chung, nông trang tập thể…Trung Quốc có các hình thức tổ đổi công, hợp tác xã bậc thấp, hợp tác xã bậc cao, công xã nhân dân. Việt Nam có hình thức tổ đổi công, hợp tác xã bậc thấp và hợp tác xã bậc cao. Đến đầu những năm 1960, đa số các nước chủ nghĩa xã hội đã cơ bản hoàn thành hợp tác hóa nông nghiệp (tỷ lệ tb 90% hộ nông dân tham gia hợp tác xã ). Như vậy, quan hệ sản xuất chủ nghĩa xã hội trong nông nghiệp được hình thành, nhưng chủ yếu mới thay đổi từ chế độ tư hữu thành chế độ sở hữu tập thể về tư liệu sản xuất. Song, do thực hiện chủ quan, nóng vội trong thời gian ngắn, phong trào hợp tác hóa nông nghiệp, cũng như kinh tế hợp tác xã không vững chắc, hiệu quả trong thời gian ngắn và kém hiệu quả nếu duy trì lâu dài… - Nguyên nhân hiệu quả thấp: + Chưa tìm ra sự kết hợp hài hòa giữa sở hữu nhà nước về đất đai, kỹ thuật và sở hữu tập thể. 6 + Nhà nước thực thi các chính sách buộc nông nghiệp, nông dân phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, quân sự hóa nền kinh tế . + Biểu hiện của nền kinh tế : tính thiếu hụt về sản phẩm tiêu dùng. * Tác động của đổi mới chính sách đối với nông nghiệp: Trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung : Được vận hành theo cơ chế hành chính mệnh lệnh không cho phép phân bổ sử dụng vốn đầu tư hợp lý; Việc cấp hộ chiếu cho nông dân gây ra xu thể chảy máu nhân lực từ nông thôn ra thành thị, làm cho nông nghiệp khủng hoảng nghiêm trọng: Gia tăng mâu thuẫn giữa sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể và sở hữu tư nhân. Trình độ sản xuất nông nghiệp thấp, giá thu mua nông sản thấp, năng suất, tiền công thấp, quản trị yếu kém, xuất hiện xu thế bỏ hoang đất nông nghiệp; nhận thức về công bằng trong sản xuất và phân phối gây cản trở sáng kiến cá nhân. Nông nghiệp còn có đặc thù về tính mùa vụ, dễ tổn thương khi thời tiết khí hậu thay đổi. Không thực hiện quản lý giá cả theo thị trường nên làm giảm cầu về nông sản, hạ tầng nông nghiệp thấp kém, thể chế chưa hoàn thiện, không hấp dẫn đầu tư. Xu hướng đầu cơ đất, mở cửa thị trường nông sản trong điều kiện sức cạnh tranh của doanh nghiệp nông nghiệp thấp. Nhiều doanh nghiệp thua lỗ, tài chính doanh nghiệp bất ổn (Ở Nga 90% doanh nghiệp thua lỗ trong khi trung bình trong nền kinh tế là 40%). Khi tổng bí thư Goocbachop tiến hành cải cách kinh tế trong thập kỷ 1980, Liên Xô đã bắt đầu áp dụng chính sách khoán cho đội sản xuất có quy mô 10 – 30 lao động , nhằm tạo động lực mới cho nông dân. Cách quản lý của nông trang tập thể, nông trường quốc doanh, hợp tác xã không huy động được tinh thần hăng say sản xuất của người lao động và nông dân. Sau 1987, chủ trương khoán hộ và giao đất tập thể cho nông dân được hợp thức hóa, tỷ lệ nông trang viên tham gia cơ chế khoán đến đội sản xuất chỉ tăng từ 10% - 30%. sản xuất nông nghiệp tăng lên đáng kể nhưng chưa tạo được sự đột phá lớn trong sản xuất vì còn vướng bởi thương mại (lưu thông hàng hóa) chưa được tự do hóa. nhà nước tiếp tục nắm kế hoạch sản 7 xuất, đầu tư, quản lý phân phối vật tư và quyết định giá nông sản. Đến thập kỷ 1980, năng suất lao động của nông trang viên Liên Xô chỉ bằng 1/10 nông dân trong các trang trại của Mỹ, cũng giống như xã viên hợp tác xã ở Việt Nam mọi sức lực chỉ chăm chút cho mảnh đất “tăng gia của gia đình”. Cuối thập kỷ 1980, 3% “diện tích phụ gia đình” đã đóng góp tới 25% tổng sản lượng nông nghiệp. Đến cuối năm 1990, Liên Xô ban hành Luật nông hộ cho phép nông hộ tư nhân được hoạt động, được thuê lao động , được sản xuất và bán sp ra thị trường song song với nông trang, nông trường. sản xuất lương thực sau thời gian khởi sắc, Liên Xô quay lại tư túc lương thức và cuối cùng phải nhập khẩu. Cho đến khi Liên Xô tan vỡ, nông sản thế giới rẻ hơn tràn vào, IMF và các tổ chức quốc tế buộc Nga phải cắt giảm trợ cấp cho nông nghiệp, nông dân lại chưa quen với sự cạnh tranh trên thị trường tự do, giảm giá thành, tăng chất lượng nông sản… Nông dân thiếu vốn, vật tư, phân bón, máy móc không có vật tư thay thế, đất canh tác giảm nhanh, sản xuất nông nghiệp suy giảm. Khi chuyển sang cơ chế thị trường, tổ chức lại nông nghiệp với mục tiêu kinh tế là chính, Tổng thống Nga: Ensin chủ trương tái cấu trúc theo hướng thương mại hóa (lưu thông hàng hóa) mà không làm thay đổi toàn bộ quan hệ sản xuất ở nông thôn. 1.3. Quan hệ sản xuất nông nghiệp trong nền kinh tế chuyển đổi. Quan hệ sản xuất nông nghiệp trong nền kinh tế chuyển đổi được đặc trưng bởi sự thay đổi về sở hữu đất đai: Từ nhà nước sang đa dạng gồm nhà nước và tư nhân. Chuyển đổi sở hữu tạo ra điều kiện cho các hình thức kinh doanh mới hình thành cạnh các doanh nghiệp nông nghiệp và tập thể kiểu cũ. Sự hình thành thị trường đất nông nghiệp tạo thuận lợi cho tập trung đất trong sản xuất nông nghiệp. Sở hữu tư nhân bước đầu thể hiện hiệu quả (hộ gia đình, doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp FDI đầu tư vào sản xuất nông nghiệp). Việc giải tán các nông trang dẫn tới hình thành 2 hình thức kinh 8 doanh: Tư nhân và tập thể bên cạnh kinh tế phụ gia đình. Doanh nghiệp lớn hình thành từ chuyển đổi các nông trường (khác với Mỹ doanh nghiệp lớn chiếm 5% số lượng, 10% đất nông nghiệp, 60% sản lượng; Nga: chiếm 85% đất, 40% sản lượng). Tuy nhiên vai trò của Nhà nước cần phải điều tiết thị trường đất, chống đầu cơ. 1.3.1 Cải cách quan hệ sở hữu đất đai ở Liên bang Nga - Về đất đai, Luật đất đai cũng ban hành vào cuối năm 1990, cho phép nông dân kế thừa mà không cho buôn bán đất. * Sau khi Liên Xô tan rã, Liên bang Nga (1991); đã diễn ra cải cách kinh tế sâu rộng nhằm xóa bỏ chế độ sở hữu độc quyền của nhà nước về tư liệu sản xuất , chuyển giao nhiều tài sản thuộc nhà nước trước đây vào sở hữu tư nhân hoặc sở hữu của các tổ chức ngoài nhà nước. Cải cách ruộng đất được coi là bộ phận quan trọng trong cải cách kinh tế , với nội dung chủ yếu là tư hữu hóa đất đai, từ bỏ độc quyền nhà nước về đất đai và chuyển sang chế độ sở hữu đất đai đa dạng về loại hình và hình thức. Cơ sở lý luận chủ yếu của cải cách ruộng đất tại Liên Bang Nga từ năm 1991 là tư tưởng tự do kinh tế mới do một số học giả Nga và phương tây đề xuất. Tư tưởng này dựa trên ba quan điểm chủ yếu: + Chế độ sở hữu toàn dân về đất đai: Ở Liên Xô trước đây sở hữu toàn dân và sở hữu nhà nước về cơ bản được hiểu đồng nhất) đã gây ra cản trở đối với phát triển nông nghiệp khi duy trì quá lâu nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung tập trung, nên hiệu quả sản xuất nông nghiệp không cao. + Để nâng cao hiệu quả kinh tế cần xóa bỏ cơ chế kế hoạch hóa tập trung và chuyển ngay sang kinh tế thị trường mà nền tảng của kinh tế thị trưởng phải là sở hữu tư nhân, trong đó có sở hữu tư nhân về đất đai. + Để thúc đẩy động lực kinh doanh trong nông nghiệp cần phải xác lập chế độ sở hữu tư nhân về đất đai, bởi lẽ chỉ có sở hữu tư nhân về đất đai mới đảm bảo tự do kinh doanh và tạo động lực cho sản xuất nông nghiệp phát triển. 9 Giữa thập kỷ 1990, Chính phủ Nga vẫn nắm quyền phân phối nông sản, thu mua lương thực và trợ giá cho nông dân thông quá chính sách giá đảm bảo. Ngay cả khi chính quyền TW đã rút khỏi nhiệm vụ này thì nhiều chính quyền địa phương vẫn tiếp tục nắm giữ. Năm 1995: sản xuất nông nghiệp xuống thấp nhất kể từ 1963: Số lượng chăn nuôi giảm 11%; trồng trọt giảm 5%; Năm 1998: Nông nghiệp ở Nga suy giảm nghiêm trọng; Năm 2003, Luật đất đai mới ban hành cho phép mua bán và sở hữu đất tư nhân. Ngay 2003, diện tích đất nông nghiệp của nông trang giảm đi hơn ¼ nhưng vẫn chiếm tới 68% tổng diện tích đất nông nghiệp. Năm 2004: Sản lượng lương thực vẫn chưa phục hồi mức trước khi Liên Xô tan vỡ, diện tích canh tác lương thực mất đi ¼ và vẫn tiếp tục giảm. Vai trò thế chấp đất nông nghiệp mới được công nhận, nhưng quy định về hạn điền vẫn tồn tại (với mức cho phép mua đất của một cá nhân không vượt quá 10% diện tích đất nông nghiệp của huyện); Luật đất đai cũng dành cho chính quyền địa phương được quyền ưu tiên mua trước, (tư nhân chỉ mua khi chính quyền không có nhu cầu). Nông dân được khuyến khích tự do chọn lựa mô hình tổ chức sản xuất nông nghiệp ( doanh nghiệp,hợp tác xã , nông hộ hay giữ nguyên nông trang tập thể, nông trường quốc doanh). Quá trình tái cơ cấu nông nghiệp diễn ra rất chậm, 30% đơn vị sản xuất giữ nguyên trạng đa số nông dân lo lắng trước tình trạng cạnh tranh gay gắt và đầy biến động của thị trường đã chọn con đường xây dựng doanh nghiệp chung hay hợp tác xã. Tuy vậy, cáchợp tác xã ra đời trong thời kỳ kinh tế sa sút không nhận được sự trợ giúp cần thiết của chính phủ và các cơ quan có liên quan. Mặt khác, nông dân chưa quen trước thị trường cạnh tranh khắc nghiệt. Do kết cấu tổ chức chậm thay đổi nên sản xuất nông nghiệp sa sút. Tuy nhiên, cải cách ruộng đất tại Liên Bang Nga phần nhiều xuất phát từ động cơ chính trị nhằm thay đổi toàn bộ chế độ chủ nghĩa xã hội đã tồn tại ở Liên Bang Nga : Chính quyền tập trung thực hiện các biện pháp tư bản hóa nông nghiệp, khôi phục những quan hệ sở hữu tư nhân. Tư nhân hóa 10 đất đai được thực hiện đối với các loại đất khác (do Nhà nước và tập thể sở hữu). Trong quá trình cải cách ruộng đất đã thực hiện cả những biện pháp thúc đẩy sự hình thành sở hữu đất đai của chính quyền địa phương và tạo lâp chế độ pháp lý để phân định sở hữu nhà nước: Chính sách giải thể và tư nhân hóa đất đai; Chính sách pháp lý của cải cách ruộng đất là hệ thống bộ luật, văn bản dưới luật; Chính sách tư nhân hóa đất đai của các nông trang, nông trường, những loại đất vườn, đất kinh tế phụ gia đình, đất xây dựng nhà ở cá nhân. Quy định trao quyền sở hữu phần đất miễn phí, chia tách phần đất không cần sự đồng ý của tập thể hoặc bộ máy nông trang, nông trường. Để phát triển kinh tế trang trại, nhà nước cho phép giao cả những đất đất rừng, cho phép tự quản lý phần đất, kể cả quyền thế chấp đất. Xác định cả trách nhiệm của lãnh đạo nông trang về việc gây cản trở đối với việc chia đất. Tình hình chuyển đổi sản xuất nông nghiệp sang hình thái kinh tế nông dân cá thể thông qua giải thể các nông trang, nông trường là công việc khó khăn hơn nhiều so với dự kiến. Trước những lý do: + Sự mong đợi về hiệu quả kinh tế cao của kinh tế nông trang đã không được thỏa mãn. + Nhà nước đã rơi vào tình trạng là không thể hỗ trợ kinh tế nông trang về kỹ thuật, tài chính ở mức cần thiết như mục tiêu kế hoạch. Do đó, phải điều chỉnh và thực hiện cải cách ruộng đất : * Kết quả cải cách ruộng đất ở Liên bang Nga: Tình trạng phá sản của các nông trang, nông trường (Khoảng 7 triệu ha đất nông nghiệp không được sử dụng), một phần ba diện tích đất đã chia cho các chủ nông trại bị bỏ hoang, nhập khẩu nông sản đạt mức 40%. Cuối thập kỷ 1990, một số dấu hiệu ổn định trong phát triển kinh tế nông trại: Nông nghiệp Nga bước đầu đã đảm bảo sự tăng trưởng ổn định, tăng trưởng sản xuất nông nghiệp năm 2013 so với năm 2005 lên tới 131,9%, với sản lượng đạt 3.790,8 tỷ Rúp. Duy trì mức tăng trưởng hàng năm khá cao, năm 2014 đóng góp 4% GDP, sử dụng 9,7% nguồn lao động, thu nhập của nông dân cũng được cải thiện. Theo cơ 11 quan thống kê Rosstat (Nga) công bố, từ tháng 7/2017 - tháng 6/2018): Nga thu hoạch được 135,393 triệu tấn ngũ cốc, trong đó có 85,9 triệu tấn lúa mì. Tổng thống V.Putin trong thông điệp liên bang cho biết, con số này vượt cả mức cao nhất dưới thời Liên Xô là 127,4 triệu tấn (1978). Theo Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp Nga Alexander Tkachev: Từ 1/7/2017 - 21/2/2018, Nga cung cấp 33,548 triệu tấn ngũ cốc cho thị trường nước ngoài, tăng 39,7% so với 2016. Đồng thời, xuất khẩu lúa mì tăng hơn 40% - 26,25 triệu tấn và kiều mạch là 2,9 triệu tấn. Khách hàng mua ngũ cốc của Nga là hơn 100 quốc gia trên thế giới, bao gồm Ai Cập, Thổ Nhĩ Kỳ, Bangladesh, Saudi Arabia, Indonesia, Azerbaijan, Nigeria… Xuất khẩu nông sản nhiều hơn vũ khí Theo Bloomberg, vụ mùa 2017-2018, xuất khẩu lúa mì của Nga tăng 30% so với năm ngoái (36,6 triệu tấn) và nước này sẽ trở thành nhà cung cấp lớn nhất trong vòng 100 năm qua. Cho đến nay, kỷ lục này thuộc về Mỹ, vào năm 1992-1993, nước này đã xuất 36,8 triệu tấn lúa mì ra thị trường thế giới. Theo thống kê hải quan, xuất khẩu lương thực và nông sản tăng 21,3% và đạt 20,7 tỷ USD, nhiều hơn xuất khẩu vũ khí, Tổng thống Putin cho biết. * Hạn chế: . Việc làm ở nông thôn GĐ: 2000 - 2013 giảm từ 40% đến 23%. . 2013, tỷ lệ dân số nông thôn là 26% nhưng chiếm hơn 40% tổng số hộ nghèo cả nước. . Các giải pháp cho phát triển nông thôn trong chương trình Liên bang chưa có sự phối hợp tốt giữa các bộ, cơ quan chịu trách nhiệm thực hiện. . So với các nước phát triển, hỗ trợ của CP Nga dành cho nông nghiệp là thấp hơn nhiều. . Tình trạng di dân từ nông thôn đến đô thị làm giảm chất lượng nhân lực NÔNG NGHIỆP , NÔNG THÔN . * Dự báo: 12 Theo các chuyên gia: Phải có những đầu tư đáng kể cho sản xuất nông nghiệp phù hợp với đời sống thị trường để đến năm 2025 đạt được SL 150 triệu tấn ngũ cốc và 50 triệu tấn xuất khẩu . 1.3.2. Sự biến đổi của QHSH đất đai và hình thức kinh doanh nông nghiệp ở một số nước Đông Âu Hunggari: Về quyền sở hữu đất đai: Ngày này: 30% QSD đất thuộc về Chính phủ; 70% QSD đất là nông dân đi thuê lại của các chủ tư nhân sở hữu đất nhưng không trực tiếp sản xuất. Trong đó: 45% là các trang trại tư nhân sản xuất nông nghiệp; 40,6% các doanh nghiệp sản xuất nông nghiệp; Hơn 14% là các tổ chức (công an, quân đội, nhà thờ…). Quá trình tập trung hóa đất đai vào tay các trang trại sản xuất diễn ra nhanh, gần 70% đất sản xuất nông nghiệp có quy mô trên 100 ha – thu nhập lớn, gần 21% đất sản xuất nông nghiệp có quy mô 10 – 100 ha – thu nhập lớn, Còn lại là hộ nông dân với quy mô dưới 1 ha – thu nhập thấp. Với quy mô tập trung đất đai làm tăng hiệu quả sản xuất nông nghiệp nhưng cũng tạo ra sự chênh lệch về thu nhập ở nông thôn. Năm 1989: Tổng đầu tư cho nông nghiệp 10% tổng đầu tư xã hội ; Năm 1991: 4,8%, giá trị ngành chiếm hơn 14% GDP cả nước; Năm 1994: 2,8% ;giá trị ngành chiếm 6% GDP cả nước; Bởi vì: Chỉ phủ ưu tiên đầu tư cho công nghiệp và đô thị; Còn đầu tư nông nghiệp chủ yếu dựa vào trợ cấp của khối EU. Do đầu tư giảm, nông dân làm thuê trên đất của doanh nghiệp, mức phân bón giảm, diện tích nông nghiệp giảm, máy móc không được thay thế… Tóm lại: Trước quá trình chuyển đổi là những biến động về chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội ở nông thôn diễn ra sâu sắc. Đặc biệt, trong một thời gian: Sự suy giảm thấp nhất của sản xuất nông nghiệp, đời sống nông dân khó khăn… Đây không phải là sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế nhờ công nghiệp 13 và dịch vụ tăng trưởng nhanh mà phản ánh sự suy sụp của sản xuất nông nghiệp, không chú trọng đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp. Bungari: Trong thời kỳ kinh tế kế hoạch hóa tập trung tập trung tiến hành hợp tác hóa nhưng khác với nhiều nước chủ nghĩa xã hội khi chyển sang nền kinh tế chuyển đổi: Đất nông nghiệp không thuộc sở hữu nhà nước mà sở hữu tập thể; kinh tế hợp tác hoạt động sôi động và hiệu quả; Có nền nông nghiệp phát triển mạnh. Thập kỷ 1950 hợp tác hóa đã làm cho nông nghiệp sa sút; Năm 1968: Cho phép hợp tác xã chủ động tổ chức sản xuất nông nghiệp, tham gia thị trường, không bị ràng buộc bởi các chỉ tiêu của nhà nước, mỗi hộ xã viên có 0,5 ha đất để sản xuất “kinh tế phụ gia đình”; trong nông trường quốc doanh, nông trường viên cũng được chia một phần diện tích tăng gia. Vì vậy, kinh tế hộ đóng góp đến 30% sản lượng nông nghiệp. Năm 1989: Nông nghiệp đóng góp 15,6% GDP; 21,7% giá trị xuất khẩu; thu hút 10,6% tổng đầu tư xã hội, tạo việc làm cho 17,4% lao động. 1.3.3. Các hình thức kinh doanh nông nghiệp trong nền kinh tế chuyển đổi - Doanh nghiệp nông nghiệp Là tổ chức kinh tế tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh nông nghiệp, tham gia vào toàn bộ thị trường đầu vào và đầu ra, được tổ chức, hoạt động phù hợp với Luật Doanh nghiệp. Phân loại doanh nghiệp nông nghiệp: Công ty cổ phần, công ty hợp danh, TNHH, liên doanh, TNHH một thành viên; Bản chất và đặc điểm của doanh nghiệp nông nghiệp là doanh nghiệp tiến hành sản xuất kinh doanh trên địa bàn nông thôn, được hình thành từ các hộ kd, các hợp tác xã và trang trại… các doanh nghiệp tham gia kinh doanh các sản phẩm phục vụ cho nông nghiệp và kinh tế nông thôn. Các doanh nghiệp nông nghiệp thường có quy mô vừa và nhỏ, so với doanh nghiệp công 14 nghiệp, dịch vụ… doanh nghiệp kinh doanh nông nghiệp có chi phí sản xuất kinh doanh cao hơn. Vai trò của doanh nghiệp có vị trí quan trọng tạo ra sản phẩm trong nước (GDP), chuyển dịch cơ cấu kinh tế quốc dân, tạo việc làm và thu nhập cho nông dân, ổn định đời sống xã hội ở nông thôn -Hợp tác xã nông nghiệp:là tổ chức kinh tế tập thể của các cá nhân, các hộ, các tổ chức kinh doanh khác ( doanh nghiệp), được tổ chức và hoạt động theo luậthợp tác xã . có 3 loại: hợp tác xã sản xuất nông nghiệp; hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp; hợp tác xã kết hợp cả sản xuất và dịch vụ; Bản chất của hợp tác xã là các cá nhân, tổ chức, hộ, doanh nghiệp kết hợp lại để sản xuất , kinh doanh và cung cấp dv trong nông nghiệp, nhằm thỏa mãn nhu cầu sản xuất kinh doanh của các thành viên. hoạt động như một loại hình doanh nghiệp, có tư cách pháp nhân, tự nguyện, bình đẳng, phân cấp, tự chủ, tự chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ tài chính trong phậm vi vốn củahợp tác xã theo quy định của pl. Vai trò của hợp tác xã giúp cho hộ, tổ chức kinh tế khác tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh trong điều kiện không thể tự mình thực hiện được, nâng cao sử dụng nguồn lực, ruộng đất, thủy lợi, máy móc, kho xưởng…hợp tác xã còn giúp tăng sức cạnh tranh của các thành viên trên thị trường và thực hiện các mục tiêu xã hội . - Nông lâm trường quốc doanh: Là nông trại của kinh tế nhà nước, hạch toán và sử dụng ngân sách, phục vụ chủ yếu vì mục tiêu công ích; là nông trại của nhà nước, là công cụ cơ bản của nhà nước can thiệp vào kinh tế nông nghiệp; Bản chất: thuộc thành phần kinh tế nhà nước, sử dụng ngân sách nhà nước, đơn vị phục vụ công ích, hoạt động theo luật doanh nghiệp. Vai trò: Góp phần tăng cường vai trò kinh tế của nhà nước trong lâm nghiệp. Thông qua nông trường, nhà nước thực hiện vai trò điều tiết sự phát triển kinh tế nông nghiệp, hoặc thực hiện các mục tiêu công ích như bảo tồn 15 .
Xem thêm Rút gọn
Bạn đang xem trước 15 trang tài liệu, để xem tài liệu hoàn chỉnh vui lòng click vào nút Download ở dưới.
Số trang: 30 | Định dạng: docx | Người đăng: chipchip | Ngày: 02/07/2023
Tên tài liệu | Định dạng | |
---|---|---|
Tiểu luận Kinh tế chính trị Quan hệ sản xuất nông nghiệp trong nền kinh tế chuyển đổi - Ý nghĩa và định hướng vận dụng cho Việt Nam | ||
Sau khi tải tài liệu, Quý khách có thể chuyển đổi file tài liệu từ PDF sang WORD miễn phí tại đây | ||
Từ khóa: |