nhân dân thấp. Muốn thoát khỏi tình trạng đó con đường duy nhất là phải đổi mới kinh tế. Sau đại hôị Đảng VI năm 1986 nền kinh tế nước ta chuyển sang một hướng đi mới: phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa - đó chính là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Việc nghiên cứu về kinh tế thị trường - sự hình thành và phát triển có ý nghĩa vô cùng to lớn cả về lý thuyết lẫn thực tế. Một mặt, cho ta thấy được tính khách quan của nền kinh tế thị trường, và sự cần thiết phải phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của nhà nước ở nước ta hiện nay, thấy được những gì đã đạt được và chưa đạt được của Việt nam. Mặt khác, giúp chúng ta có cái nhìn tổng quan về nền kinh tế nước nhà, đồng thời thấy được vai trò to lớn của quản lý nhà nước đối với nền kinh tế thị trường, những giải pháp nhằm đưa nước ta tiến nhanh lên nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Ở Việt Nam, phát triển kinh tế thị trường trong thực tế không những là nội dung của công cuộc đổi mới mà lớn hơn thế còn là công cụ, là phương thức để nước ta đi tới mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nhưng vấn đề đặt ra là: Thực hiện mô hình này bằng cách nào để hạn chế tiêu cực, tăng tích cực giúp cho kinh tế nước ta ngày càng phát triển sánh vai cùng các cường quốc năm châu khác? Chính vì vậy, việc nghiên cứu, bổ sung và hoàn thiện những quan điểm, biện pháp để nền kinh tế nước ta phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa và giữ vững định hướng đó là công việc vô cùng thiết thực và cần thiết, có ý nghĩa to lớn đối với mỗi nhà nghiên cứu và phân tích kinh tế. Xuất phát từ tầm quan trọng đó, trong phạm vi môn học Lịch sử kinh tế Việt Nam, học viên thực hiện tiểu luận với chủ đề: “Phân tích quá trình hình thành và phát triển của mô hình kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Ý nghĩa lý luận, thực tiễn”. 3 Tiểu luận Lịch sử kinh tế Việt Nam Văn Công Vũ PHẦN NỘI DUNG I. SỰ CẦN THIẾT KHÁCH QUAN HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XHCN Ở VIỆT NAM 1. Cơ chế cũ và hạn chế của nó Cơ chế cũ là cơ chế tập trung quan liêu bao cấp. Đó là cơ chế mà ở đó Nhà nước quản lý nền kinh tế bằng mệnh lệnh hành chính là chủ yếu, thể hiện ở sự chi tiết hoá các nhiệm vụ do Trung ương giao bằng một hệ thống chỉ tiêu pháp lệnh từ một trung tâm. Các doanh nghiệp căn cứ vào chỉ tiêu kế hoạch của nhà nước từ đó lập kế hoạch sản xuất kinh doanh cho mình. Trong cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, các cơ quan nhà nước can thiệp quá sâu vào các hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp nhưng lại không chịu trách nhiệm gì đối với các quyết định của mình, từ đó làm cho các doanh nghiệp thụ động không phát huy được tính sáng tạo, các quan hệ kinh tế bị hiện vật hoá. Quan hệ hàng hoá tiền tệ chỉ mang tính hình thức, bỏ qua hiệu quả kinh tế, quản lý kinh tế và kế hoạch hoá bằng chế độ cấp phát, giao nộp. Bộ máy quản lý cồng kềnh, nhiều khâu trung gian nhưng kém năng lực. Cơ chế tập trung bao cấp đã góp phần cho thắng lợi giải phóng đất nước, nhưng sau khi điều kiện kinh tế xã hội đã thay đổi. Đặc biệt khi trình độ phát triển kinh tế đã nâng cao lên rất nhiều, cơ cấu càng phức tạp thì những khuyết điểm bên trong nền kinh tế kế hoạch ngày càng bộc lộ. Cuộc chạy đua theo mục tiêu chế độ quốc hữu hoá làm loại bỏ hoặc hạn chế chế độ kinh tế phi quốc hữu, kiềm chế cạnh tranh nên khó làm sống động nền kinh tế. Trên thực tế kinh tế kế hoạch lấy chủ nghĩa bình quân làm phương châm phân phối cho nên đã kìm hãm tích cực và sáng tạo của người sản xuất kinh doanh. Chúng ta thực hiện phân phối theo lao động trong điều kiện chưa cho phép. Trong hoạt động kinh tế, việc nhà nước quản lý hành chính bằng mệnh lệnh trực tiếp, chính quyền và xí nghiệp không tách riêng, đầu vào cao đầu ra thấp đã trở thành những căn bệnh cũ của nền kinh tế kế hoạch. Những điều trên đã gây trở ngại cho sự phát triển sản xuất xã hội. Trước tình hình đó, việc chuyển đổi nền kinh nước ta sang nền kinh tế thị trường là đúng đắn phù hợp với thực tế, quy luật kinh tế và xu thế của thời đại. 2. Chủ trương phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong khi các nước trong khu vực đã đạt được những bước phát triển nhảy vọt dựa vào cơ chế kinh tế thị trường, mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, xây dựng cơ cấu kinh tế hướng bên ngoài, thì Việt Nam trong nhiều năm vẫn theo đuổi cơ chế kế hoạch hoá tập trung bằng mệnh lệnh hành chính, quan liêu từ trung ương và cơ cấu kinh tế hướng nội là chủ yếu, đã kìm hãm khả năng hoà nhập vào trào lưu phát triển của khu vực. Sau đại hội VI (1986), do đổi mới nói chung và sự đổi mới trong nhận thức xã hội, Đảng ta nhận định rằng để phát triển theo kịp các nước trong khu vực và thế giới thì phải phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của nhà nước. Bởi vì hiện nay ở nước ta, các điều kiện của sản xuất hàng hoá vẫn còn đang tồn tại. Phân công lao động: ở nước ta đang tồn tại hệ thống phân công lao động do 4 Tiểu luận Lịch sử kinh tế Việt Nam Văn Công Vũ lịch sử để lại với nhiều ngành nghề. Với sự phát triển khoa học, kỹ thuật hiện đại, nhiều ngành nghề mới xuất hiện làm cho sự phân công lao động ở nước ta trở nên phong phú hơn, nó tạo điều kiện cho hàng hoá phát triển. Ở nước ta cũng đang tồn tại quan hệ sở hữu đa dạng về tư liệu sản xuất và ứng với nó là nền kinh tế nhièu thành phần. Điều đó tạo nên sự độc lập về mặt kinh tế giữa các thành viên, doanh nghiệp. Nó cũng có tác dụng làm cho hàng hoá phát triển. Mặt khác, kinh tế hàng hoá phát triển, nó thúc đẩy quá trình phân công lao động, quá trình chuyên môn hoá và hiện đại hoá. Qua đó thiết lập được mối quan hệ kinh tế giữa các vùng xoá bỏ tình trạng tự cung, tự cấp. Đẩy mạnh quá trình xã hội hoá sản xuất. Nó thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung vốn và lao động thể hiện ở quy mô của các doanh nghiệp, quy mô về kinh tế ngày càng tăng. Kinh tế hàng hoá góp phần tăng năng suất lao động thực hiện dân chủ hoá đời sống kinh tế. Nó khai thác được thế mạnh từng ngành, từng địa phương để làm ra nhiều sản phẩm cho xã hội, tạo tiền đề cho việc mở rộng liên kết, liên doanh cả trong nước và nước ngoài. Mở rộng phạm vi giao lưu hàng hoá giữa nước ta và các nứơc khác. Là điều kiện thúc đẩy sự phát triển của một số ngành, lĩnh vực khác. Trong bất cứ hình thái kinh tế - xã hội nào cũng có phương thức sản xuất giữ vị trí chi phối. Ngoài ra, còn có phương thức sản xuất tàn dư của xã hội trước và phương thức sản xuất mầm mống của xã hội tương lai. Các phương thức sản xuất này ở vào địa vị lệ thuộc, bị chi phối bởi phương thức sản xuất thống trị. Trong một hình thái kinh tế xã hội có nhiều phương thức sản xuất biểu hiện thành phần kinh tế. Trong thời kỳ quá độ, chưa có thành phần kinh tế nào giữ vai trò thống trị, chi phối các thành phần kinh tế khác, mà chúng chỉ là những mảnh, những bộ phận hợp thành kết cấu kinh tế xã hội trong một hệ thống thống nhất biện chứng. Mỗi thành phần kinh tế có kiểu tổ chức sản xuất kinh doanh của nó hợp thành nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. Việc nhận thức và tổ chức thực hiện trên thực tế các thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ có ý nghĩa lý luận và thực tiễn to lớn. Hiện nay, ở nước ta đang tồn tại nhiều trình độ khác nhau của lực lượng sản xuất (thủ công, trình độ cơ khí, tự động hoá, tin học hoá.). Vì vậy khi thiết lập quan hệ sở hữu thì cũng phải đa dạng phù hợp ở nước ta hiện nay có thể làm xuất hiện thêm một số thành phần kinh tế khác. Ở nước ta tồn tại một nền kinh tế nhiều thành phần là một tất yếu khách quan. Vì kinh tế nhiều thành phần, đây là tồn tại khách quan do lịch sử để lại trong thời kỳ quá độ và có nhiều thành phần kinh tế mà sự tồn tại của nó vẫn có lợi cho sự phát triển đất nước. Phát triển kinh tế nhiều thành phần nhằm thực hiện cái quy luật: Quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất, trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Phát triển kinh tế nhiều thành phần nhằm để cho sản xuất nước ta phát triển liên tục không bị gián đoạn. Phát triển kinh tế nhiều thành phần nhằm tạo ra sự cạnh tranh giữa các thành phần kinh tế thị trường hiện nay ở nước ta. II. QUÁ TRÌNH NHẬN THỨC CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VỀ KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA 1. Các giai đoạn nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa 1.1. Thời kỳ cuối thập kỷ 70 đến thập kỷ 80 của thế kỷ XX: Tìm tòi và thử nghiệm cải cách cục bộ trong khuôn khổ mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung 5 Tiểu luận Lịch sử kinh tế Việt Nam Văn Công Vũ Chúng ta đều biết rằng, việc lựa chọn mang tính khẳng định đường lối đổi mới kinh tế, mô hình kinh tế ở Việt Nam vào cuối những năm 1980 diễn ra dưới áp lực gay gắt của thực tiễn trong nước và ngoài nước. Ở trong nước, mô hình kinh tế thị trường và đơn nhất thành phần kinh tế tỏ ra kém hiệu quả. Nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa trong hoàn cảnh một nước nghèo, kinh tế, kỹ thuật lạc hậu, trình độ phát triển xã hội thấp, lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề. Suốt một thời gian dài, Việt Nam cũng như nhiều nước xã hội chủ nghĩa khác đã áp dụng mô hình xã hội chủ nghĩa kiểu Xôviết, mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu bao cấp, mà thực chất là mô hình kinh tế cứng nhắc phi thị trường, quá đề cao vai trò của một thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa dưới hai hình thức: kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể, còn các thành phần kinh tế khác bằng những chính sách, biện pháp hành chính, áp đặt nóng vội để đẩy nhanh tiến độ cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với chúng, với mục tiêu chính không phải là để huy động, phát triển, mà là hạn chế thu hẹp, thậm chí xóa bỏ các thành phần kinh tế được gọi là “phi xã hội chủ nghĩa”. Kết cục là thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa (quốc doanh và tập thể) phát triển nhanh về số lượng, mở rộng quy mô và phạm vi hoạt động, nhưng hiệu quả sản xuất – kinh doanh thấp và ngày càng có xu hướng giảm sút. Mặc dù trong một thời gian tương đối dài, mô hình kinh tế này đã từng phát huy tác dụng, tích cực trong việc thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa theo kiểu cổ điển, tập trung được các nguồn lực, sức người, sức của đáp ứng yêu cầu của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, nhưng càng về sau, nó càng bộc lộ những khiếm khuyết, mà chủ yếu là các nhu cầu của xã hội vượt quá khả năng đáp ứng của một nền kinh tế kém hiệu quả, thiếu năng động do thực hiện cơ chế kế hoạch tập trung, quan liêu và chế độ phân phối (về cơ bản) bình quân chủ nghĩa. Chính điều đó đã kìm hãm, làm thui chột động lực và tính cạnh tranh giữa các lực lượng kinh tế, không huy động và sử dụng được các nguồn lực của đất nước để tạo đà cho sự phát triển. Cộng với công tác chỉ đạo, lãnh đạo, quản lý cũng phạm phải một số sai lầm, mà nguyên nhân sâu xa của những sai lầm ấy là bệnh giáo điều, chủ quan, duy ý chí, giản đơn, nóng vội, không tôn trọng quy luật kinh tế khách quan; nhận thức về chủ nghĩa xã hội không đúng với thực tế của Việt Nam, khiến cho nền kinh tế lâm vào tình trạng trì trệ kéo dài, rồi khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng và kéo dài: sản xuất phát triển chậm, kém hiệu quả và bấp bênh, tình trạng thiếu hụt, khan hiếm hàng hóa (kể cả lương thực); lạm phát phi mã (774,7% năm 1986), đời sống nhân dân rất khó khăn. Vì vậy, đoạn tuyệt với cơ chế kinh tế cũ, lạc hậu và phát triển kinh tế đã trở thành đòi hỏi bức thiết và tất yếu đối với Việt Nam lúc bấy giờ. Trên thế giới, bắt đầu từ thập niên 80 của thế kỷ XX, nhiều sức ép đối với sự phát triển kinh tế của Việt Nam cũng đã xuất hiện và gia tăng. Chính phủ Mỹ thi hành chính sách cấm vận kinh tế đối với Việt Nam từ cuối thập niên 70 thế kỷ XX, nhằm đặt nền kinh tế Việt Nam vào thế cô lập, suy yếu và dẫn tới sự sụp đổ. Dưới áp lực của Mỹ, nhiều chính phủ, tổ chức kinh tế - tài chính quốc tế, tập đoàn và công ty trên thế giới cũng buộc phải hạn chế hoặc ngừng quan hệ với Việt Nam. Tuy chính sách này không làm cho Việt Nam bị cô lập hoàn toàn, nhưng kéo dài thời gian thi hành chính sách cấm vận ấy đã gây ra hậu quả không nhỏ đối với nền kinh tế Việt Nam. 6 Tiểu luận Lịch sử kinh tế Việt Nam Văn Công Vũ Khi Việt Nam lâm vào khủng hoảng kinh tế - xã hội thì Liên Xô, các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu và nhiều nước trong hệ thống xã hội chủ nghĩa trên thế giới cũng lâm vào tình cảnh tương tự. Do khủng hoảng kinh tế, các nước xã hội chủ nghĩa cũng không thể triển khai kế hoạch hợp tác kinh tế với Việt Nam một cách bình thường. Do đó, viện trợ từ các nước xã hội chủ nghĩa – nguồn lực phát triển hết sức quan trọng đối với Việt Nam – bị suy giảm, hoạt động thương mại của Việt Nam đối với khu vực thị trường truyền thống, quan trọng hàng đầu cũng bị giảm mạnh, làm trầm trọng thêm những mất cân đối lớn vốn có của nền kinh tế. Trong khi đó, thành công của Trung Quốc trong việc “cải cách, mở cửa” (1978) nền kinh tế theo định hướng thị trường nhưng vẫn giữ được con đường xã hội chủ nghĩa và nền kinh tế Trung Quốc có sự tăng trưởng phát triển nhanh1. Có thể nói đây là những gợi ý và tham khảo trong chiến lược phát triển của Việt Nam trong bối cảnh mới. Hơn nữa, trên thế giới cuộc cách mạng khoa học – công nghệ đang diễn ra với quy mô lớn chưa từng có, đem lại cho loài người những thành tựu vô cùng to lớn. Dưới sự tác động của cuộc cách mạng khoa học – công nghệ, nhiều nước trên thế giới thực hiện cơ cấu lại nền kinh tế, mở cửa nền kinh tế và phát triển kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Công cuộc tìm tòi, thử nghiệm để thoát khỏi khủng hoảng (trước năm 1986) Để đưa đất nước ra khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội, Việt Nam đã phải trải qua một quá trình tìm tòi, thử nghiệm, đấu tranh tư tưởng và tổng kết thực tiễn rất gian khổ. Điều này thể hiện như sau: Bước đột phá thứ nhất, Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa IV (8/1979), với quan điểm “làm cho sản xuất bung ra”, có thể coi là sự “đột phá đầu tiên” trong việc thay đổi chủ trương, chính sách trên lĩnh vực kinh tế, với ý nghĩa là khắc phục những khuyết điểm sai lầm trong quản lý kinh tế, trong cải tạo xã hội chủ nghĩa, điều chỉnh những chủ trương, chính sách kinh tế, phá bỏ những rào cản để cho lực lượng sản xuất phát triển. Đó là: - Ổn định nghĩa vụ lương thực trong 5 năm, phần lương thực dôi ra được bán cho Nhà nước theo giá khuyến khích hay thị trường tự do. - Khuyến khích mọi người tận dụng ao hồ, đất hoang hóa… - Đẩy mạnh chăn nuôi gia súc dưới mọi hình thức (quốc doanh, tập thể, hộ gia đình). - Sửa lại thuế lương thực, giá lương thực để khuyến khích sản xuất phát triển. - Sửa lại chế độ phân phối trong nội bộ hợp tác xã nông nghiệp, bỏ lối phân phối theo định suất, định lượng để khuyến khích tính tích cực của người lao động. - Điều chỉnh một số chính sách không còn phù hợp, cải tiến chính sách phân phối lưu thông… Những chủ trương đó đã nhanh chóng được nhân dân cả nước tiếp nhận và biến thành hành động cụ thể trong thực tiễn kinh tế: 1 Trong khoảng 22 năm, Trung Quốc đã rút ngắn mức độ chênh lệch thu nhập bình quân đầu người của mình so với mức bình quân trên thế giới 7,3 lần xuống còn 1,9 lần. Theo Hồ An Cường: Trung Quốc: Những chiến lược lớn, NXB.Thông Tấn, H.2003 7 Tiểu luận Lịch sử kinh tế Việt Nam Văn Công Vũ - Sau hơn 3 tháng thực hiện, ở Hà Nội đã có 1,529 hộ đăng ký kinh doanh sản xuất công nghiệp và thủ công nghiệp. - Kinh tế gia đình ở Thành phố Hồ Chí Minh phát triển nhanh. - Tỉnh Long An từ 1981 đã thực hiện thí điểm mô hình theo cơ chế “mua cao, bán cao” thay cho “mua cung, bán cấp”, bù giá vào lương. - Hải Phòng, Vĩnh Phúc, Nghệ An… được thí điểm hình thức khoán trong các hợp tác xã nông nghiệp. Trên cơ sở ấy, ngày 13/1/1981, Chỉ thị 100-CT/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng đã ra đời. “Khoán 100” đã bước đầu tạo ra một động lực mới trong sản xuất nông nghiệp. Trong công nghiệp: nổi lên là các Quyết định số 25/CP và 26/CP của Chính phủ. Trước tình trạng đình trệ trong sản xuất công nghiệp, lãnh đạo một số địa phương đã tìm cách khắc phục. Thành phố Hồ Chí Minh thực hiện giao quyền tự chủ cho các xí nghiệp đạt được những kết quả ban đầu khích lệ. Thành phố Hải Phòng thực hiện giao quỹ lương cho xí nghiệp đánh cá Cát Bà và cho phép khoán sản phẩm từng chuyến đi biển. Hàng trăm cơ sở sản xuất kinh doanh khác trong khu vực nhà nước theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6, Nghị quyết 26 của Bộ Chính trị đã làm thử việc trả lương khoán, lương sản phẩm và vận dụng linh hoạt các hình thức khoán tiền thưởng. Sau khi nghiên cứu tổng kết những điểm làm thử, ngày 21/1/1981, Hội đồng Chính phủ đã ra Quyết định số 25/CP về một số chủ trương và biện pháp nhằm phát huy quyền chủ động sản xuất kinh doanh và quyền tử chủ về tài chính của các xí nghiệp quốc doanh và Quyết định số 26/CP về mở rộng hình thức trả lương khoán, lương sản phẩm và vận dụng hình thức tiền thưởng trong các đơn vị sản xuất kinh doanh của Nhà nước. Trong hai quyết định này thì Quyết định số 25/CP có tác động rõ nhất đến tình hình sản xuất công nghiệp ở Việt Nam. Nội dung chính của Quyết định số 25/CP là kế hoạch ba phần: - Phần Nhà nước giao có vật tư bảo đảm (kế hoạch A): Nhà nước sẽ cung ứng vật tư và sản phẩm làm ra phải bán theo địa chỉ và giá do Nhà nước quy định. - Phần xí nghiệp tự làm (kế hoạch B): là phần mà xí nghiệp phải tự lo nguyên liệu, vật tư (mua trên thị trường) để sản xuất thêm sản phẩm trong nhiệm vụ thiết kế của xí nghiệp. - Phần sản phẩm phụ (kế hoạch C): xí nghiệp sản xuất ra những mặt hàng không nằm trong diện mặt hàng Nhà nước giao từ những sản phẩm phế thải. Ví dụ, xí nghiệp gỗ lấy gỗ thừa làm đồ chơi trẻ em, xí nghiệp bông lấy bông thừa làm chăn tiết kiệm,… Sau một thời gian thực hiện thì kế hoạch 3 phần bị biến dạng dần. Các phần kế hoạch bị lẫn lộn. Các xí nghiệp đều tìm mọi cách để có lợi cho công nhân của mình. - Trên lĩnh vực cải tạo xã hội chủ nghĩa, tư tưởng sử dụng các thành phần kinh tế đã được đặt ra, từ hiệu quả kinh tế mà vận dụng các hình thức sản xuất kinh doanh phù hợp, chính sách đối với kinh tế cá thể từng bước được điều chỉnh cho phù hợp với thực tế… Tóm lại, những tư tưởng đột phá về kinh tế trong Nghị quyết Trung ương 6 khóa IV của Đảng, trong Chỉ thị 100-CT/TW và trong các quyết định của Chính phủ Việt Nam trong thời kỳ này là: - Đây là những ý tưởng ban đầu, tuy còn sơ khai, chưa cơ bản và toàn diện, nhưng đó là “sự mở đầu” có ý nghĩa quan trọng. - Điểm nổi bật trong những tìm tòi thử nghiệm là “giải phóng lực lượng sản xuất” mà tư tưởng “làm cho sản xuất bung ra” là tiền đề, trên cơ sở khắc phục những sai lầm, 8 Tiểu luận Lịch sử kinh tế Việt Nam Văn Công Vũ khuyết điểm trong quản lý kinh tế, trong cải tạo xã hội chủ nghĩa, tạo ra động lực cho sản xuất, chú ý kết hợp ba lợi ích, quan tâm hơn đến lợi ích thiết thân của người lao động. - Tác động thực tiễn của những tìm tòi, thử nghiệm ban đầu ấy có nhiều hạn chế. Tuy vậy, nó đã đặt những cơ sở đầu tiên cho sự đổi mới toàn diện, sâu sắc này. Tuy nhiên, những tìm tòi đổi mới ban đầu đó đã phải trải qua những thử thách rất phức tạp. Trước những khó khăn về kinh tế và đời sống, cũng như khuynh hướng muốn quay lại với quan niệm và cách làm cũ. Hội nghị Trung ương 5 khóa V (12/1983) vẫn xem sự chậm chạp trong cải tạo xã hội chủ nghĩa là một trong những nguyên nhân của tình trạng khó khăn về kinh tế - xã hội và chủ trương phải đẩy mạnh hơn nữa công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa. Nhà nước phải nắm hàng, nắm tiền, xóa bỏ thị trường tự do về lương thực và các nông, hải sản quan trọng; thống nhất quản lý giá, bảo đảm cung cấp đủ 9 mặt hàng theo đúng định lượng cho người ăn lương, lập cửa hàng cung cấp… Trong hợp tác xã nông nghiệp thì quản lý, điều hành chặt chẽ tất cả các khâu theo kế hoạch. Hội nghị Trung ương 6 khóa V (7/1984) vẫn tiếp tục chủ trương “đẩy mạnh cải tạo xã hội chủ nghĩa”, đẩy mạnh thu mua, nắm nguồn hàng, cải tạo thị trường tự do… Điều đó cho thấy, sự đổi mới tư duy là không đơn giản, quan niệm cũ về cải tạo xã hội chủ nghĩa còn ăn sâu, bám rễ trong nhiều người. Trên thực tế khủng hoảng kinh tế - xã hội ngày một nghiêm trọng, đời sống nhân dân, nhất là người làm công ăn lương ngày càng khó khăn”2 Bước đột phá thứ hai, Hội nghị Trung ương 8 khóa V (6/1985) đánh dấu bước đột phá thứ hai bằng chủ trương dứt khoát xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp, thực hiện cơ chế một giá, xóa bỏ chế độ cung cấp hiện vật theo giá thấp; chuyển mọi hoạt động sản xuất kinh doanh sang cơ chế hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa; chuyển ngân hàng sang nguyên tắc kinh doanh. Điểm quan trọng là Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương khóa V, đã thừa nhận sản xuất hàng hóa và những quy luật của kinh tế hàng hóa. Tháng 9/1985, cuộc tổng điều chỉnh giá, lương, tiền được thực hiện. Đợt điều chỉnh giá – lương – tiền được tiến hành sau Hội nghị Trung ương 8. Điều chỉnh giá, lương, tiền đồng thời một lúc, bắt đầu từ ngày 1/10/1985. Nhà nước thực hiện một giá kinh doanh, xóa bỏ hoàn toàn giá cung cấp và chế độ tem phiếu, chỉ giữ lại sổ gạo cho cán bộ, công nhân, viên chức, lực lượng vũ trang, đối tượng chính sách để bảo hiểm khi giá lương lực có đột biến. Tổng điều chỉnh toàn bộ hệ thống giá nhà nước chỉ đạo, lấy giá lúa thị trường tháng 8/1985 đưa toàn bộ mặt hàng giá chỉ đạo lên khoảng 10 lần so với trước tháng 10/1985. Tiền lương được tính lại trên cơ sở mức giá mới, theo mức tăng giá. Quyết định đổi tiền ngày 4/9/1985 đưa mệnh giá tiền mới gấp 10 lần tiền cũ. Đây là cuộc tổng điều chỉnh giá – lương – tiền, tiến hành toàn diện trong một thời gian ngắn đã gây ra cú sốc cho nền kinh tế cũng như đời sống, tâm lý xã hội. Hệ quả làm cho “giá cả thị trường có nhiều diễn biến phức tạp, ảnh hưởng không tốt đến nhiều hoạt động kinh tế - xã hội. Lạm phát phi mã. Sự chênh lệch giữa giá và lương, giữa lương danh nghĩa và lương thực tế quá lớn. Chính vì vậy, đầu năm 1986, lại phải lùi một bước: Thực hiện chính sách hai giá. Trên lĩnh vực phân phối lưu thông, làm phát ở mức 3 con số trong nhiều năm, 2 Đảng Cộng sản Việt Nam – Ban Chấp hành Trung ương – Ban Chỉ đạo tổng kết lý luận: Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận – thực tiễn qua 20 năm đổi mới (1986-2006), Nxb. Chính trị quốc gia, H.2005, tr.45-46 9 Tiểu luận Lịch sử kinh tế Việt Nam Văn Công Vũ đỉnh cao là 774,7% năm 1986. Lượng lưu thông tiền tệ cuối năm 1984 bằng 8,4 lần cuối năm 1980. Nhiều vấn đề nóng bỏng, phức tạp chưa được giải quyết, có mặt ngày càng trầm trọng hơn. Đây là những sai lầm trong việc đổi tiền, muốn tăng giá trị đồng tiền khi cơ sở đảm bảo cho việc tăng đó chưa có (quan hệ tiền – hàng mất cân đối nghiêm trọng). Bước đột phá thứ ba, Tháng 5/1986, Hội nghị lần thứ 10 Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa V khẳng định một lần nữa tính đúng đắn của Nghị quyết Trung ương 8 (6/1985), trong quá trình chuẩn bị Dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội VI của Đảng, Bộ Chính trị đã nêu ra những kết luận đối với một số vấn đề thuộc về quan điểm kinh tế: 1/ Trong bố trí cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư, phải lấy nông nghiệp làm mặt trận hàng đầu, ra sức phát triển công nghiệp nhẹ, công nghiệp nặng được phát triển có chọn lọc. 2/ Trong cải tạo xã hội chủ nghĩa, xác định cơ cấu kinh tế nhiều thành phần là một đặc trưng của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. 3/ Trong cơ chế quản lý kinh tế, lấy kế hoạch làm trọng tâm, đồng thời phải vận dụng đúng đắn quan hệ hàng hóa, tiền tệ, dứt khoát xóa bỏ cơ chế tập trung, quan liêu bao cấp, chính sách giá phải vận dụng quy luật giá trị, tiến tới thực hiện cơ chế một giá. Đây là bước đột phá thứ ba, có ý nghĩa lớn trong đổi mới tư duy kinh tế của Đảng Cộng sản Việt Nam. Tóm lại, dưới áp lực của thực tiễn, thời kỳ cuối thập niên 70 đầu thập niên 80 thế kỷ XX, trong nền kinh tế nước ta đã diễn ra những cải cách cục bộ theo hướng bước đầu thừa nhận thị trường là công cụ bổ sung cho kế hoạch, chủ yếu để tổ chức hoạt động kinh doanh ở cấp vi mô. Với sự thừa nhận này, thị trường không bị coi là đối lập với chủ nghĩa xã hội và có thể chấp nhận trong quá trình xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa. Tuy có sự chuyển biến nhận thức và thực tiễn quan trọng nhưng những cuộc thử nghiệm, tìm tòi ấy chưa đủ sức mang tính đột phá để tạo ra bước ngoặt căn bản trong quan điểm lý luận và thực tiễn về quá trình hình thành và phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Bởi vì: 1/ Thị trường chỉ được coi là công cụ bổ sung cho kế hoạch, công cụ chủ yếu để quản lý, tổ chức và điều hành nền kinh tế vẫn là kế hoạch pháp lệnh; 2/ Về thực chất, những cải cách cục bộ ấy vẫn trong khuôn khổ của cơ chế kế hoạch hóa tập trung và nhằm duy trì, củng cố hệ thống kinh tế vận hành theo cơ chế đó; 3/ Giá cả một số mặt hàng thiết yếu (gạo, chất đốt, thịt…) và yếu tố đầu vào của sản xuất, như lương (giá cả sức lao động), lãi suất, tỷ giá hối đoái… vẫn là giá phi thị trường; 4/ Trong nhận thức lý luận vẫn chưa thừa nhận đa sở hữu, đa thành phần, kinh tế tư nhân còn bị phân biệt đối xử, doanh nghiệp nhà nước chưa được tự chủ về tài chính, tự chủ kinh doanh; nền kinh tế vận hành không theo quy luật kinh tế thị trường, phủ nhận thị trường, giá cả thị trường, cạnh tranh… nền kinh tế giẫm chân tại chỗ, lâm vào khủng hoảng trầm trọng. Chủ trương công nghiệp hóa là đúng, nhưng đường lối và phương pháp tiến hành không hợp lý. Đại hội lần thứ VI của Đảng năm 1986 nhận định: “Trên thực tế chúng ta đã chủ trương đẩy mạnh công nghiệp hóa trong khi chưa có đủ tiền đề cần thiết, mặt khác chậm đổi mới cơ chế quản lý lỗi thời”. Chúng ta thiên về xây dựng công nghiệp nặng, không tập trung sức phát triển nông nghiệp, công nghiệp nhẹ, không coi trọng đúng mức việc khôi phục và tổ chức lại sản xuất công nghiệp, chủ quan nóng vội trong cải tạo 10 Tiểu luận Lịch sử kinh tế Việt Nam Văn Công Vũ xã hội chủ nghĩa và bảo thủ, trì trệ trong quản lý kinh tế, lực lượng sản xuất bị kìm hãm; quan hệ sản xuất trở thành lực cản phát triển do chậm đổi mới3 1.2. Đại hội lần thứ VI của Đảng thực sự là đại hội của những quyết sách lớn nhằm xoay chuyển tình hình và tạo ra một bước ngoặt cho sự phát triển của đất nước Về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, Đại hội VI đã chỉ rõ: Đó là thời kỳ lâu dài, khó khăn, gồm nhiều chặng đường; một thời kỳ cải biến cách mạng sâu sắc, toàn diện và triệt để. Nước ta phải xây dựng từ đầu một chế độ xã hội mới cả về lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng. Đại hội VI cũng đã khẳng định phải từ bỏ quan niệm giản đơn, tư tưởng nóng vội chủ quan, duy ý chí, muốn đốt cháy giai đoạn. Đại hội VI của Đảng đã giữ lại luận điểm về chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ mà Đại hội V nêu ra và quyết định phải đi tiếp chặng đường đầu tiên, đồng thời xác định nhiệm vụ bao trùm và mục tiêu tổng quát của những năm còn lại của chặng đường đầu tiên là “ổn định mọi mặt tình hình kinh tế - xã hội, tiếp tục xây dựng những tiền đề cần thiết cho việc đẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa trong chặng đường tiếp theo”4 Từ nhiệm vụ bao trùm và mục tiêu tổng quát nêu trên, Đại hội VI đã xác định 5 mục tiêu cụ thể về kinh tế - xã hội. 1/ Sản xuất đủ tiêu dùng và có tích lũy 2/ Bước đầu tạo ra một cơ cấu kinh tế hợp lý nhằm phát triển sản xuất. 3/ Xây dựng và hoàn thiện một bước quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. 4/ Tạo ra chuyển biến tốt về mặt xã hội. 5/ Bảo đảm nhu cầu củng cố quốc phòng và an ninh5. Và rút kinh nghiệm của Đại hội lần thứ V, Đại hội VI đã không đề ra một thời hạn nhất định khi nào kết thúc chặng đường đầu tiên, mà “cái mốc đánh dấu chặng đường đầu tiên kết thúc là đạt được năm mục tiêu nói trên. Độ dài của chặng đường đầu tiên tùy thuộc một phần quan trọng vào việc vận dụng những bài học đã rút ra từ thực tiễn mười năm qua, để đẩy nhanh nhịp độ phát triển kinh tế - xã hội trong thời gian tới”6. Báo cáo chính trị tại Đại hội VI cũng chỉ rõ: để thực hiện được những nhiệm vụ, mục tiêu của những năm còn lại của chặng đường đầu tiên thì điều quan trọng hàng đầu là phải đổi mới chính sách kinh tế, đồng thời với việc đổi mới chính sách xã hội, đặt hai loại chính sách này trong mối tương quan mật thiết cùng tác động và thúc đẩy lẫn nhau. Và muốn đổi mới chính sách kinh tế và chính sách xã hội, nhất thiết phải đổi mới nhận thức về chủ nghĩa xã hội. 3 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb. Sự Thật, H.1987, tr.19 4 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb. Sự thật, H.1987, tr.42 5 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb. Sự thật, H.1987, tr.43 6 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb. Sự thật, H.1987, tr.45-46 11 Tiểu luận Lịch sử kinh tế Việt Nam Văn Công Vũ - Trên cơ sở nhận thức đúng đắn hơn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Đại hội VI Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước nhằm thực hiện có hiệu quả hơn công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đại hội đưa ra những quan niệm mới: phát triển nền kinh tế nhiều thành phần với những hình thức kinh doanh phù hợp, coi trọng việc kết hợp lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội; chăm lo toàn diện và phát huy nhân tố con người, có nhận thức mới về chính sách xã hội. Hội nghị Trung ương 6 khóa VI (3/1989) phát triển thêm một bước đã đưa ra quan điểm phát triển nền kinh tế hàng hóa có kế hoạch gồm nhiều thành phần đi lên chủ nghĩa xã hội, coi “chính sách kinh tế nhiều thành phần có ý nghĩa chiến lược lâu dài, có tính quy luật từ sản xuất nhỏ đi lên chủ nghĩa xã hội” và thực hiện tinh thần dân chủ về kinh tế, đảm bảo cho mọi người được tự do làm ăn theo pháp luật. - Phát triển nền kinh tế hàng hóa có kế hoạch gồm nhiều thành phần, với nhiệm vụ bao trùm và mục tiêu tổng quá của những năm còn lại của chặng đường đầu tiên là ổn định mọi mặt tình hình kinh tế - xã hội, tiếp tục xây dựng những tiền đề cần thiết cho việc đẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa ở giai đoạn tiếp sau. Trong lúc tình hình kinh tế - xã hội đang mất ổn định, Đại hội VI xác định nhiệm vụ ổn định là hoàn toàn đúng, có ổn định mới phát triển được, có phát triển mới tạo ra sự ổn định cao hơn, ổn định gắn liền với phát triển trong quá trình đổi mới, tiến lên phía trước của nước ta. - Trên cơ sở nhiệm vụ bao trùm và mục tiêu tổng quát mà tiến hành cơ cấu lại nền kinh tế, điều chỉnh lớn cơ cấu đầu tư. Đại hội VI chỉ rõ “nền kinh tế quốc dân có một cơ cấu hợp lý là nền kinh tế mà trong đó các ngành, các vùng, các thành phàn, các loại hình sản xuất có quy mô và trình độ kỹ thuật khác nhau phải được bố trí cân đối, liên kết với nhau, phù hợp với điều kiện kinh tế, bảo đảm cho nền kinh tế phát triển ổn định” và “phải xây dựng được một cơ cấu kinh tế hợp lý, trước hết là cơ cấu các ngành kinh tế”. Do đó, “trong toàn bộ quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, kể cả chặng đường hiện nay, không được tách rời nông nghiệp với công nghiệp, không thể coi trọng nông nghiệp hay công nghiệp”. Trong chặng đường hiện nay phải “tập trung sức phát triển nông nghiệp, coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, gắn công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp với sản xuất nông nghiệp, gắn nông nghiệp với chế biến nông, lâm, thủy, hải sản. Ngành dịch vụ cũng được đặt ra để chú ý phát triển - Đại hội VI xây dựng và tập trung nguồn lực cho thực hiện ba chương trình mục tiêu: lương thực – thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu. Ba chương trình mục tiêu này cụ thể hóa nội dung chính của công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa. Bước đầu sản xuất có tính yếu tố đầu vào, đầu ra, thị trường và nhu cầu tiêu dùng, cũng như là tiềm năng, thế mạnh của các ngành, vùng, tổ chức kinh tế. Như vậy, Đại hội VI của Đảng đặt ra vấn đề phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa, đồng thời hướng tới phát triển một cơ cấu kinh tế đa sở hữu với vai trò chủ đạo của kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể, thực hiện hoạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa. Các khái niệm của kinh tế thị trường như: cung – cầu, lỗ, lãi, giá cả thị trường… bắt đầu được làm quen và bắt đầu được sử dụng. Sự tồn tại của kinh tế tư nhân và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được Nhà nước thừa nhận và có chính sách khuyến khích phát triển. Cơ chế kế hoạch hóa tập trung dần dần được thay thế bằng cơ chế quản lý hoạch toán kinh doanh. Các chỉ tiêu pháp lệnh và chế độ phân phối qua tem phiếu dần dần được loại bỏ. 12 Tiểu luận Lịch sử kinh tế Việt Nam Văn Công Vũ Những thay đổi về tư duy kinh tế và những đổi mới về cơ chế kinh tế, điều hành vĩ mô đã được nền kinh tế từng bước thoát ra khỏi khủng hoảng và giải phóng một bước lực lượng sản xuất. Song trong giai đoạn này vẫn còn hạn chế cả về tư duy kinh tế và thực tiễn vận hành nền kinh tế theo cơ chế mới. Đó là: + Nhận thức về kinh tế hàng hóa và kinh tế thị trường chưa đầy đủ, dẫn đến các bước tiến hành cải cách trong thực tiễn chậm chạp và ngập ngừng. + Các thị trường chưa hình thành, hoặc sơ khai, tự phát. Hệ thống pháp luật cho sự phát triển một nền kinh tế hàng hóa và sự vận hành của thị trường chưa được ban hành đầy đủ. + Còn có sự phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế qua cơ chế, chính sách giá cả, thuế, lãi suất… công bằng xã hội chưa được quan tâm và xử lý có hiệu quả + Nhà nước kiểm soát trực tiếp trên phạm vi lớn các yếu tố thị trường (giá cả, lãi suất, tỷ giá…). Mức độ cạnh tranh thấp… Nhà nước có ảnh hưởng to lớn đến thị trường nhưng trên thực tế không có khả năng điều tiết các hoạt động kinh tế qua thị trường bằng công cụ kinh tế do thiếu nguồn lực và thiếu năng lực quản lý kinh tế… 1.3. Những năm 1990: Dứt khoát chuyển sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa - Đại hội lần thứ VII của Đảng Cộng sản Việt Nam với sự kiên định chủ trương: “phát triển kinh tế - xã hội theo con đường củng cố độc lập dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta là quá trình thực hiện dân giàu nước mạnh, tiến lên hiện đại trong một xã hội nhân dân làm chủ, nhân ái, có kỷ cương, có văn hóa, xóa bỏ áp bức, bất công, tạo điều kiện cho mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc”, có điều kiện phát triển7 đã xác định mô hình kinh tế nước ta là “nền kinh tế có nhiều thành phần với nhiều dạng sở hữu và hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất, thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển có hiệu quả nền sản xuất xã hội”8 và “nền kinh tế vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách và các công cụ khác”, với các tiêu chí: “Mọi đơn vị kinh tế không phân biệt quan hệ sở hữu đều hoạt động theo cơ chế tự chủ kinh doanh, hợp tác và cạnh tranh với nhau bình đẳng trước pháp luật” + “Khuyến khích tính năng động sáng tạo đi đôi với thiết lập trật tự, kỷ cương trong hoạt động kinh tế” + “Hiệu quả kinh tế - xã hội là tiêu chuẩn quan trọng nhất của sự phát triển” + “Tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ, công bằng xã hội, phát triển văn hóa, bảo vệ môi trường”9 Từ đó đã chỉ rõ: “Đổi mới kinh tế là chuyển nền kinh tế mang nặng tính tự cấp, tự túc sang kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý 7 Đảng Cộng sản Việt Nam: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb.Sự thật, H.1991, tr.8 8 Đảng Cộng sản Việt Nam: Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000, Nxb.Sự thật, H.1991, tr.8 9 Đảng Cộng sản Việt Nam: Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000, Nxb.Sự thật, H.1991, tr.8,9 13 Tiểu luận Lịch sử kinh tế Việt Nam Văn Công Vũ của nhà nước” nhằm “vừa giải phóng và phát huy được tiềm năng sản xuất trong xã hội”, vừa khắc phục những hạn chế và tiêu cực của kinh tế thị trường10 - Đại hội lần thứ VIII của Đảng (6/1996) đã xác định rõ hơn mô hình kinh tế tổng quát của nước ta. Đó là “Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa”11. Và đề ra mục tiêu đến năm 2020, đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Về quan hệ sản xuất, chế độ sở hữu, cơ chế quản lý và chế độ phân phối gắn kết với nhau. Về đời sống vật chất và văn hóa, nhân dân có cuộc sống no đủ, có nhà ở tương đối tốt, có điều kiện thuận lợi về học hành, đi lại, chữa bệnh, có mức hưởng thụ văn hóa khá. Đại hội VIII xác định rõ hơn mô hình kinh tế tổng quát ở nước ta là ở chỗ: Đại hội VIII làm rõ hơn định hướng xã hội chủ nghĩa trong việc xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Chúng ta đều biết, vấn đề định hướng xã hội chủ nghĩa đã được nêu từ Đại hội VII của Đảng. Để làm rõ thế nào là định hướng xã hội chủ nghĩa trong xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Đại hội VIII đã nêu ra 6 điểm: + “Thực hiện nhất quán lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần. Lấy việc giải phóng sức sản xuất, động viên tối đa mọi nguồn lực bên trong và bên ngoài để công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nâng cao hiệu quả kinh tế và xã hội, cải thiện đời sống nhân dân, làm mục tiêu hàng đầu trong việc khuyến khích phát triển các thành phần kinh tế và hình thức tổ chức kinh doanh. + Chủ động đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế nhà nước, kinh tế hợp tác xã, kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo cùng với kinh tế hợp tác xã dần dần trở thành nền tảng. Tạo điều kiện kinh tế và pháp lý thuận lợi để các nhà kinh doanh tư nhân yên tâm đầu tư làm ăn lâu dài. Mở rộng các hình thức liên doanh, liên kết giữa kinh tế nhà nước với các thành phần kinh tế khác cả trong và ngoài nước. Áp dụng phổ biến các hình thức kinh tế tư bản nhà nước. + Xác lập, củng cố và nâng cao địa vị làm chủ của người lao động trong nền sản xuất xã hội, thực hiện công bằng xã hội ngày càng tốt hơn. + Thực hiện nhiều hình thức phân phối, lấy phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu, đồng thời phân phối dựa trên mức đóng góp các nguồn lực khác với kết quả sản xuất kinh doanh và phân phối thông qua phúc lợi xã hội. Thừa nhận sự tồn tại lâu dài của các hình thức thuê mướn lao động nhưng không để biến thành quan hệ thống trị dẫn tới sự phân hóa xã hội hình thành hai cực đối lập. Phân phối và phân phối lại hợp lý các thu nhập; khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xóa đói giảm nghèo, không để diễn ra chênh lệch quá đáng về mức sống và trình độ phát triển giữa các vùng, các tầng lớp dân cư. +Tăng cường lực lượng quản lý vĩ mô của Nhà nước, khai thác triệt để vai trò tích cực đi đôi với khắc phục và ngăn ngừa, hạn chế những tác động tiêu cực của cơ chế thị 10 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb.Sự thật, H.1991, tr.23-26 11 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb.Chính trị quốc gia, H.1996, tr.82 14 Tiểu luận Lịch sử kinh tế Việt Nam Văn Công Vũ trường. Bảo đảm sự bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trước pháp luật của mọi doanh nghiệp và cá nhân không phân biệt thành phần kinh tế. + Giữ vững độc lập, chủ quyền và bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc trong quan hệ kinh tế với bên ngoài”12 Nắm vững sáu nội dung trên thì nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần mà chúng ta xây dựng và phát triển sẽ không chệch sang quỹ đạo tư bản chủ nghĩa. Dĩ nhiên, thực hiện được những nội dung trên hoàn toàn không đơn giản và qua thực tiễn kiểm nghiệm, những nội dung trên cần phải được cụ thể hóa, phải được điều chỉnh, bổ sung để việc định hướng cho nền kinh tế nước ta phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa ngày càng vững chắc. 1.4. Đại hội lần thứ IX của Đảng là Đại hội khẳng định mô hình kinh tế nước ta là mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Đại hội lần thứ IX của Đảng Cộng sản Việt Nam (4/2001) đã chỉ rõ: “Thực hiện nhất quán lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa; đó chính là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”. Với sự xác định như vậy, Đại hội IX của Đảng đã tiến một bước dài trong việc định hình và cụ thể hóa mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Việt Nam. Đại hội xác định “mục đích của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân dân”, “phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh, hiệu quả, bền vững; tăng trưởng kinh tế gắn liền với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường thiên nhiên; kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường quốc phòng, an ninh”; và chủ trương “sử dụng cơ chế thị trường, áp dụng các hình thức kinh tế và phương pháp quản lý của kinh tế thị trường để kích thích sản xuất, giải phóng sức sản xuất, phát huy mặt tích cực, hạn chế và khắc phục mặt tiêu cực của cơ chế thị trường”13. Đại hội X của Đảng (2006) nêu rõ phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là để “thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Đại hội khẳng định “Quyền sở hữu tài sản và quyền tự do kinh doanh được pháp luật bảo hộ”, mọi công dân có quyền bình đẳng trong đầu tư kinh doanh, tiếp cận cơ hội, nguồn lực kinh doanh” và lần đầu tiên xác định “kinh tế tư nhân có vai trò quan trọng, là một trong những động lực của nền kinh tế. Doanh nghiệp cổ phần ngày càng phát triển, trở thành hình thức tổ chức kinh tế phổ biến, thúc đẩy xã hội hóa sản xuất kinh doanh và sở hữu”. Để nâng cao hiệu lực quản lý của nhà nước, Đại hôi yêu cầu “Tách chức năng quản lý hành chính nhà nước khỏi chức năng quản lý kinh doanh của doanh 12 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb.Chính trị quốc gia, H.1996, tr.91-92 13 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2005, tr.635-637. 15 .
Xem thêm Rút gọn
Bạn đang xem trước 15 trang tài liệu, để xem tài liệu hoàn chỉnh vui lòng click vào nút Download ở dưới.
Số trang: 42 | Định dạng: docx | Người đăng: chipchip | Ngày: 02/07/2023
Tên tài liệu | Định dạng | |
---|---|---|
Phân tích quá trình hình thành và phát triển của mô hình kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam - Ý nghĩa lý luận, thực tiễn | ||
Sau khi tải tài liệu, Quý khách có thể chuyển đổi file tài liệu từ PDF sang WORD miễn phí tại đây | ||
Từ khóa: |