vật chất - kỹ thuật cho chế độ xã hội chủ nghĩa. Trong đó, nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao mà cụ thể là nguồn tài nguyên trí lực đóng vai trò quyết định đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra mạnh mẽ, Đảng và Nhà nước ta càng đặc biệt coi trọng việc xây dựng, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế hiện nay. Ông cha ta thường căn dặn: “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia”. C. Mác cho rằng, con người là yếu tố số một của lực lượng sản xuất. Nhà tương lai học người Mỹ, Alvin Toffler nhấn mạnh vai trò của lao động trí thức: “Tiền bạc tiêu mãi cũng hết, quyền lực rồi sẽ mất; chỉ có trí tuệ của con người thì khi sử dụng không những không mất đi mà còn lớn lên”. Trên cơ sở tổng kết công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa từ đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XX đến nay và bám sát bối cảnh, yêu cầu, nhiệm vụ mới, Đại hội XIII của Đảng nêu rõ chủ trương: “Tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá trên nền tảng của tiến bộ khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo”. Để phát triển CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức phải có nguồn lực cần thiết như nguồn lực con người, vốn tài nguyên thiên nhiên, cơ sở vật chất kỹ thuật; trong đó nguồn lực con người, tài nguyên chất xám, tài nguyên trí lực là một nguồn lực quan trọng nhất cho tiến trình phát triển của đất nước và tiến bộ xã hội, xây dựng xã hội tiến bộ, công bằng, dân chủ, văn minh, dân giàu, nước mạnh. Do đó, trong khuôn khổ một bài thu hoạch tôi chọn chủ đề này để làm rõ vai trò của nguồn tài nguyên trí lực trong thực tiễn thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, 2 HĐH) gắn với phát triển kinh tế tri thức của tỉnh QT hiện nay. Trong quá trình thực hiện không tránh khỏi những thiếu sót nhất định, rất mong nhận được sự hướng dẫn và góp ý từ quý thầy cô để hoàn thiện hơn. Xin chân thành cảm ơn! Phần II. NỘI DUNG 1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của nguồn tài nguyên trí lực trong thực tiễn thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước 1.1. Khái niệm tài nguyên trí lực: Tài nguyên trí lực là tổng thể các năng lực về sức quan sát, khả năng của trí nhớ, sức suy nghĩ, óc tưởng tượng, kỹ năng thực hành và sức sáng tạo của con người. Những năng lực ấy được tương tác, phối hợp với nhau tạo thành sức mạnh trí tuệ, tiềm ẩn trong cơ thể sống của một người bình thường. Sức mạnh trí tuệ đó chính là tài nguyên trí lực (1). Tài nguyên trí lực có ở tất cả mọi người không phân biệt người đó là trí thức hay không phải trí thức, có hay không có chuyên môn kỹ thuật, lao động trí óc hay lao động chân tay. Tuy nhiên, mức độ “giàu, nghèo” về nguồn tài nguyên trí lực giữa mọi người là không giống nhau. Những người có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao, có trình độ quản lý giỏi, những người có thể hoàn thành tốt một công việc trong điều kiện phải chịu áp lực cường độ cao, các nhà sáng chế, bác học được xã hội thừa nhận thường có sức mạnh trí tuệ cao hơn so với người không có những khả năng này. Tài nguyên trí lực chính là tiềm năng về sức mạnh trí tuệ để con người có thể thực hiện, hoàn thành một công việc nhất định. Tài nguyên trí lực là một kết cấu bao hàm nhiều năng lực. Nó không phải là một năng lực đơn độc, mà là một sức mạnh tổng hợp của nhiều loại năng lực. Nó cũng không phải là phép gộp đơn giản các nhân tố như sức quan sát, khả năng của trí nhớ, sức suy nghĩ, óc tưởng tượng, kỹ năng thực hành và sức sáng tạo của con người, mà là sự kết hợp trong một cấu trúc tạo nên giá trị của tài nguyên trí lực. Mặc dù có nhiều yếu tố tạo nên giá trị của loại tài nguyên này, nhưng các nhà nghiên cứu vẫn nghiêng về tầm quan trọng của tri thức, kỹ năng và coi đây là yếu tố then chốt. Những năng lực này chủ yếu được tạo ra thông qua giáo dục, đào tạo, rèn luyện. 1.2. Đặc điểm của tài nguyên trí lực: 3 Là tài sản vô hình. Tài nguyên trí lực tuy là nguồn lực tiềm ẩn trong mỗi cá nhân, nhưng nó có thể được “mã hóa”. Phương tiện để “mã hóa” tài nguyên này hiện nay là bằng phát minh, sáng chế, phần mềm bảo vệ máy tính chống virus (như Bkav Pro), phần mềm lập trình định dạng. Tuy nhiên, dù có “mã hóa” như thế nào thì tài nguyên trí lực vẫn là tài sản vô hình, phi vật thể vì bản thân nó không hiện hữu mang tính vật lý. Nếu tài nguyên thiên nhiên thường là những thứ mà ta có thể quan sát, cảm nhận được một cách bình thường, thì với tài nguyên trí lực là không thể nhìn thấy, sờ thấy được. Nếu máy móc, thiết bị, nhà xưởng, công trình sản xuất. là hữu hình thì các yếu tố tạo nên tài nguyên trí lực như sức quan sát, khả năng của trí nhớ, sức suy nghĩ, sức sáng tạo. là vô hình. Mặc dù vậy, tài nguyên trí lực vẫn có thể đo đếm, đánh giá được và trên thực tế người ta đã tìm ra được những cách để đo lường giá trị của loại tài nguyên này. Tài nguyên trí lực là đối tượng mua bán và đem lại thu nhập. Tài nguyên trí lực là một loại sản phẩm do con người tạo ra. Trong kinh tế thị trường, nó có thể trở thành đối tượng mua bán và đem lại thu nhập cho người sở hữu và nhừng người thực hiện nó. Tuy việc mua bán vẫn tuân theo quy luật thị trường, nhưng việc định giá tài nguyên trí lực là rất khó khăn, bởi nó không phải là tài sản hữu hình và không nhìn thấy. Tuy là sản phẩm và được đánh giá là có hay không có sức mạnh trí tuệ, nhưng không phải tất cả đều được “mã hóa” nguồn tài nguyên này để đi vào lưu thông. Hơn nữa, chi phí để có các năng lực trí tuệ thường mang tính dài hạn và không phải tất cà các chi phí đều được tính bằng tiền. Thêm vào đó, việc định giá còn do cầu của người muốn sử dụng loại tài sản này và còn phụ thuộc vào hiệu lực bảo hộ của nhà nước. Bởi vậy, việc tìm ra một nguyên tắc định giá đúng và được thực sự tôn trọng là rất cần thiêt để tạo động lực cho phát triển, lưu thông nguồn tài nguyên này và để nâng mức đóng góp của nó cho tăng trưởng của nền kinh tế quốc dân. 1.3. Vai trò chủ yếu của nguồn tài nguyên trí lực: - Là nguồn lực quan trọng nhất, quyết định lợi thế cạnh tranh. Tài nguyên trí lực khi được đưa vào khai thác, sử dụng thì nó tạo ra sức mạnh trong hầu hết các lĩnh vực. Trong lĩnh vực kinh tế, trí lực không chỉ giúp nhà kinh doanh biết tính toán, suy nghĩ chin chắn, biết đưa ra những quyết định đúng đắn, mang đến thành công, mà còn tạo ra cho họ 4 những lợi thế kinh tế. Dựa vào tài nguyên trí lực, việc sản xuất được hoàn thiện hơn, có năng suất cao hơn, chất lượng sản phẩm tốt hơn. Tài nguyên trí lực là nguồn gốc của những phát minh, tạo ra công nghệ mới, sản phẩm mới, cách làm mới. Vai trò của tài nguyên trí lực ngày càng tăng lên cùng với quá trình phát triển mạnh mẽ của cách mạng khoa học, công nghệ và kinh tế thị trường hiện đại. Nếu lợi thế cạnh tranh của sản phẩm, của doanh nghiệp và của nền kinh tế vào đầu thế kỷ XX còn dựa nhiều vào quy mô nguồn vốn, vị trí địa lý, sức lao động và tài nguyên thiên nhiên, thì từ cuối thế kỷ XX trở lại đây, lợi thế đó thuộc về sức mạnh trí tuệ. Doanh nghiệp hay quốc gia nào hoàn thiện được công nghệ hiện có và phát triển được những công nghệ mới đưa vào sản xuất kinh doanh thì doanh nghiệp đó, quốc gia đó có lợi thế hơn, sức cạnh tranh trên thị trường cả trong nước và quốc tế cao hơn. - Tài nguyên trí lực là yếu tố chủ yếu thúc đẩy hiện đại hóa nền kinh tế. Tài nguyên trí lực, chứ không phải cái gì khác là yếu tố thúc đẩy sự ra đời và phát triển của nền kinh tế tri thức. Dựa vào tài nguyên trí lực, con người sáng tạo ra công nghệ mới làm cho việc sử dụng các nguồn lực khác có hiệu quả hơn. Quá trình sáng tạo công nghệ mới cũng làm ra đời những doanh nghiệp mới, ngành kinh tế mới có sức vươn lên mạnh hơn. 2. Quan niệm về công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam 2.1. Quan niệm về công nghiệp hóa Công nghiệp hóa là quá trình chuyển dịch từ xã hội nông nghiệp lên xã hội công nghiệp, từ văn minh nông nghiệp lên văn minh công nghiệp. nó không chỉ đơn thuần là những biến đổi về kinh tế mà bao gồm các biến đổi về văn hóa và xã hội từ trạng thái nông nghiệp lên xã hội công nghiệp, tức là trình độ văn minh cao hơn. 2.2. Quan niệm về hiện đại hóa Hiện đại hóa là quá trình tạo sự chuyển biến căn bản từ xã hội truyền thống lên xã hội hiện đại. đối với đời sống kinh tế- xã hội, hiện đại hóa là quá trình làm cho nền kinh tế và đời sống xã hội đạt được tính chất và trình độ của thời đại ngày nay. 2.3. Quan niệm về kinh tế tri thức 5 Kinh tế tri thức là một nền kinh tế trong đó sự sản sinh ra, phổ cập và sử dụng tri thức giữ vai trò quyết định đối với sựu phát triển kinh tế, tạo ra của cải, nâng cao chất lượng cuộc sống. 2.4. Quan điểm về công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức - Trước đổi mới chủ trương của Đảng , nhà nước chỉ đề cập đến khái niệm CNH, ưu tiên phát triển công nghiệp nặng. - Hội nghị lần thứ 7 ban chấp hành trung ương khóa VII (1994) Đảng ta đưa ra quan điểm CNH, HĐH: “CNH, HĐH là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế …dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ của khoa học-công nghệ, tạo ra năng xuất lao động xã hội cao”. - Văn kiện Đại hội XII của Đảng xác định “CNH, HĐH trong giai đoạn tới là tiếp tục đẩy mạnh thực hiện mô hình CNH, HĐH trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế gắn với phát triển kinh tế tri thức, lấy khoa học, công nghệ , tri thức và nguồn nhân lực chất lượng cao làm động lực chủ yếu”. - Đại hội XIII của Đảng nêu rõ chủ trương: “Tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá trên nền tảng của tiến bộ khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo”. 2.5. Sự cần thiết đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam Xét trên phạm vi thế giới, công nghiệp hóa là một giai đoạn phát triển lịch sử. Đó là quá trình không chỉ đơn thuần là những biến đổi về kinh tế mà còn bao gồm cả các biến đổi về văn hóa và xã hội từ trạng thái nông nghiệp lên công nghiệp, từ nền văn minh nông nghiệp lên nền văn minh công nghiệp. Công nghiệp hóa là con đường tất yếu của mọi quốc gia trong quá trình phát triển. Bên cạnh xu hướng có tính quy luật của công nghiệp hóa rút ngắn ở các nước đi sau, quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức của Việt Nam còn là cần thiết, được bắt nguồn từ: 6 Một là, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức là sự lựa chọn tối ưu để rút ngắn khoảng cách tụt hậu Do là nước đi sau, nên tất yếu Việt Nam phải lựa chọn con đường công nghiệp hóa rút ngắn. Trong bối cảnh hiện nay, con đường đó phải là đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức. Ở đây, hiện đại hóa được hiểu là quá trình làm cho nền kinh tế và đời sống xã hội mang tính chất và trình độ tiên tiến nhất của thời đại hiện nay. Quá trình này có thể diễn ra nhiều nước, không phân biệt là nước phát triển hay đang phát triển. Đối với nước ta, hiện đại hóa là quá trình tăng tốc, rút ngắn lộ trình để đuổi kịp các nước phát triển. Trong bối cảnh của thế giới để thúc đẩy việc thực hiện mục tiêu phát triển nhanh và bền vững, nước ta phải công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát liền kinh tế tri thức. Bởi lẽ, kinh tế tri thức đang trở thành xu thế nổi bật của thời đại ngày nay. Kinh tế tri thức là nền kinh tế dựa trực tiếp vào việc sản xuất, phân phối và sử dụng tri thức, thông tin(2). Hai là, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức là đòi hỏi bắt buộc để phát triển sức sản xuất của chủ nghĩa xã hội hiện thực Cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội là nền công nghiệp lớn hiện đại với cơ cấu kinh tế hợp lý, trình độ xã hội hóa cao, dựa trên nền tảng khoa học và công nghệ tiên tiến, được hình thành có kế hoạch trên toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Nó không chỉ kế thừa những thành quả văn minh mà nhân loại đã đạt được trong chủ nghĩa tư bản, mà còn được phát triển và hoàn thiện dựa trên những thành tựu mới nhất của khoa học và công nghệ, tham gia tích cực và có hiệu quả vào phân công lao động và hợp tác quốc tế. Con đường cơ bản để xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội ở nước ta trong bối cảnh hiện nay tất yếu phải là đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức. Ba là, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức là đòi hỏi thiết yếu để xây dựng quan hệ sản xuất mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa Đối với nước ta, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp chính là quan hệ sản xuất mới phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. 7 Đây cũng chính là quá trình thực hiện xã hội hóa sản xuất trên thực tế. Con đường cơ bản để xây dựng quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp là đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) xác định một trong ba đặc trưng của mô hình chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là: “có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp”(3). Bốn là, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức do yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế Do là nước đi sau, tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta tuy có nhiều cơ hội, nhưng cũng không ít thách thức. Đó là, chúng ta phải đối mặt với cạnh tranh quyết liệt, không cân sức với các nước có trình độ phát triển cao hơn về hàng hóa và dịch vụ không chỉ trên thị trường quốc tế mà ngay cả ở thị trường trong Trong hơn 30 năm đổi mới vừa qua, tuy quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta đã mở ra không gian phát triển mới cho phát triển nền kinh tế, mở rộng quan hệ hợp tác sâu, rộng với các quốc gia trong khu vực và thế giới, nâng cao vị thế của Việt Nam.,nhưng tăng trưởng xuất khẩu chưa vững chắc, cơ cấu hàng hóa xuất khẩu vẫn còn phụ thuộc nhiều vào doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài; nhập siêu vẫn còn là nguy cơ. Về cơ bản, nền kinh tế vẫn dựa chủ yếu vào tăng trưởng thương mại, vào khai thác tài nguyên, khoáng sản, xuất khẩu hàng nông sản thô với hàm lượng chế biến thấp và gia công hàng hóa ở công đoạn thấp của chuỗi giá trị (dệt may, da giày, điện tử.). Để khắc phục tình trạng này và để hội nhập kinh tế quốc tế sâu hơn, đầy đủ hơn, chúng ta phải chủ động và tích cực hơn nữa trong việc tận dụng các cơ hội của hội nhập kinh tế quốc tế, triệt để khai thác lợi thế, tổ chức lại sản xuất, nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm và hạ giá thành. Con đường cơ bản và lâu dài để đáp ứng yêu cầu này chỉ có thể là đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức. Năm là, những tác động của công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức trong đời sống xã hội 8 Ngoài những sự cần thiết nêu trên, việc đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức ở nước ta còn do chính tác động tích cực của quá trình này đối với đời sống kinh tế, chính trị và xã hội. Nó không chỉ tạo ra cơ sở vật chất - kỹ thuật và kiểu tổ chức một nền kinh tế mới, thúc đẩy mạnh mẽ phân công lao động xã hội, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tiến bộ, bảo đảm không ngừng nâng cao năng suất lao động xã hội mà còn tạo điều kiện để khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực của đất nước cho sự tăng trưởng kinh tế nhanh, tạo nhiều việc làm và tăng thu nhập cho người lao động. Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức giúp cải thiện điều kiện lao động, giải phóng người lao động, phát triển trí tuệ, đưa tri thức vào các lĩnh vực đời sống xã hội, thúc đẩy xã hội học tập, làm chủ, tiếp thu và sáng tạo tri thức mới, nhờ đó nâng cao chất lượng cuộc sống xã hội. Đây còn là quá trình tạo ra điều kiện để xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, trên cơ sở đó mà chủ động hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả hơn; tạo điều kiện vật chất - kỹ thuật để củng cố và tăng cường quốc phòng, an ninh, tăng cường vai trò và chức năng của Nhà nước. 3. Vai trò, thực trạng nguồn tài nguyên trí lực trong thực tiễn thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức của tỉnh QT hiện nay Từ nhận thức sâu sắc những nội dung cốt lõi của chủ đề, bản thân rút ra được bài học về vai trò đặc biệt quan trọng của nguồn tài nguyên trí lực trong thực tiễn thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức hiện nay, qua đó liên hệ với thực tiễn của tỉnh QT, như sau: 3.1. Vai trò của nguồn tài nguyên trí lực trong thực tiễn tại QT Thực tế, trong những năm qua nhận thức được ý nghĩa, tầm quan trọng của công tác phát triển nguồn tài nguyên trí lực của tỉnh, cụ thể là việc xây dựng đội ngũ trí thức, nguồn nhân lực chất lượng cao của tỉnh, cũng như việc xác định phát triển khoa học và công nghệ, đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo là nhiệm vụ chính trị quan trọng và thường xuyên trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nhất là việc quản lý, 9 đầu tư nghiên cứu ứng dụng khoa học và công nghệ trên tất cả các lĩnh vực, đóng góp vào sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh nhà; Ban Thường vụ Tỉnh ủy QT đã ban hành các văn bản(4) về thực hiện các Nghị quyết, Kết luận của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, như: Nghị quyết số 27-NQ/TW, ngày 06-8-2008 của Ban Chấp hành Trung ương (khoá X) về xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; Kết luận số 90-KL/TW, ngày 04/3/2014 của Bộ Chính trị (Khoá XI) về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 7 (khoá X) “về xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”; Nghị quyết số 20-NQ/TW, ngày 01/11/2012 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá XI) “Về phát triển khoa học và công nghệ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế” và Nghị quyết số 29-NQ/TW, ngày 04/11/2013 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá XI) về “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”. Trên cơ sở các văn bản của Ban Thường vụ Tỉnh ủy, cấp uỷ, chính quyền các cấp đã quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo sâu sát việc triển khai, quán triệt và tổ chức thực hiện Nghị quyết của Trung ương cũng như của Tỉnh ủy về xây dựng đội ngũ trí thức, nguồn nhân lực chất lượng cao của tỉnh, phát triển khoa học và công nghệ, về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo nhằm đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri thức của tỉnh QT. 3.2. Thực trạng nguồn tài nguyên trí lực trong thực tiễn thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức của tỉnh QT hiện nay 3.2.1. Kết quả đạt được trong phát triển đội ngũ trí thức của tỉnh Tỉnh uỷ đã ban hành Nghị quyết về nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, quy hoạch phát triển nguồn nhân lực giai đoạn 2011-2020 và đã đạt được một số kết quả cụ thể(5): Các cấp uỷ, chính quyền quan tâm, tạo điều kiện thuận lợi để đội ngũ trí thức được phát huy năng lực, cống hiến tài năng, trí tuệ cho sự nghiệp phát triển của địa phương, đơn vị; khen thưởng các tổ chức, cá nhân hoàn thành xuất sắc công tác nghiên cứu, ứng dụng 10 khoa học, công nghệ; tạo điều kiện để cán bộ, công chức, viên chức được học tập để nâng cao trình độ chuyên môn, lý luận chính trị. Công tác điều động, luân chuyển, bổ nhiệm cán bộ được thực hiện đúng nguyên tắc, dân chủ, phù hợp với trình độ, chuyên môn, vị trí công tác; xét tuyển công chức, viên chức thực hiện đúng quy trình, đảm bảo công khai, công bằng cho các đối tượng dự tuyển. Toàn tỉnh có 22.432/30.935 (72,5%) người có trình độ từ cao đẳng trở lên đang công tác ở các cơ quan Đảng, Nhà nước, lực lượng vũ trang, doanh nghiệp, các tổ chức chính trị-xã hội, các hội, các đơn vị sự nghiệp từ tỉnh đến xã, phường, thị trấn (tăng 2.662 người so với năm 2008), chiếm 2% dân số trong toàn tỉnh, góp phần tích cực vào sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng an ninh của tỉnh. Đội ngũ trí thức trong tỉnh đã tăng về số lượng, từng bước nâng cao về chất lượng, phát huy vai trò trên mọi lĩnh vực đời sống xã hội. Đông đảo trí thức đã được huy động tham gia nghiên cứu hoạch định các chủ trương, kế hoạch, dự án phát triển kinh tế - xã hội của địa phương; tham mưu, đề xuất, nghiên cứu, ứng dụng các công nghệ mới vào quản lý, chăm sóc sức khoẻ nhân dân, nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo, bồi dưỡng nhân tài, phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, nâng cao năng suất lao động và hiệu quả kinh tế. Công tác đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn cho lực lượng cán bộ lãnh đạo, quản lý được quan tâm thực hiện, đội ngũ cán bộ sau đào tạo phần lớn đều phát huy được sở trường của bản thân và vận dụng tốt kiến thức được đào tạo; trình độ đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ phường, xã từng bước được nâng lên; chú trọng đào tạo nguồn nhân lực trẻ có trình độ, năng lực và bản lĩnh chính trị vững vàng đáp ứng được yêu cầu chiến lược phát triển của tỉnh. Các hội trí thức được quan tâm củng cố và phát triển; chất lượng hiệu quả, hoạt động từng bước được nâng lên. 3.2.2. Kết quả đạt được trong sự nghiệp phát triển khoa học và công nghệ Các cấp uỷ đảng, chính quyền luôn xác định phát triển khoa học và công nghệ là nhiệm vụ chính trị quan trọng và thường xuyên trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nhất là việc quản lý, đầu tư nghiên cứu ứng dụng khoa học và công nghệ trên tất cả các lĩnh vực, đóng góp vào sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh nhà(6). 11 Gắn mục tiêu, nhiệm vụ phát triển khoa học và công nghệ với mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế- xã hội của từng ngành, từng cấp, từng địa phương. Các cấp uỷ đảng, chính quyền chú trọng nâng cao nhận thức, trách nhiệm, trình độ về khoa học và công nghệ, đẩy mạnh đổi mới tổ chức và phương thức quản lý, cơ chế hoạt động khoa học và công nghệ, nhất là việc quản lý, đầu tư nghiên cứu ứng dụng khoa học và công nghệ trên tất cả các lĩnh vực, tăng cường đầu tư phát triển tiềm lực khoa học và công nghệ, góp phần vào sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Để phát triển tiềm lực cho ngành khoa học và công nghệ, tỉnh đã đầu tư các dự án: Dự án “Nâng cao năng lực thử nghiệm cho Trung tâm Thông tin, Ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ”(10 tỉ đồng); Dự án “Tăng cường năng lực quản lý và trang thiết bị kiểm định cho Chi cục TĐC” (14,669 tỷ đồng); Dự án “Xây dựng Trang trại thực nghiệm Ứng dụng Công nghệ sinh học cho Trung tâm Thông tin, Ứng dụng Tiến bộ khoa học và công nghệ QT” (34,664tỷ đồng); Dự án “Nâng cao năng lực cho Trung tâm Kỹ thuật Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng tỉnh QT giai đoạn 2014 – 2015 (13,070 tỷ đồng). Bên cạnh đó các Dự án “Nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm, hàng hóa của doanh nghiệp tỉnh QT giai đoạn 2016 - 2020”; Dự án“Đầu tư Trung hạn mở rộng trại thực nghiệm Công nghệ sinh học với tổng mức đầu tư 90 tỷ đồng đang được xem xét cho tiến hành triển khai trong thời gian tới. Bên cạnh đó, hàng năm, kinh phí sự nghiệp khoa học được phân bổ cho các đơn vị trong tỉnh (Sở Thông tin và Truyền thông; UBND huyện, thành phố; các Sở, ban, ngành có thực hiện các đề tài, dự án khoa học và công nghệ cấp cơ sở) bằng hoặc cao hơn ngân sách Trung ương phân bổ. 3.3. Một số tồn tại, hạn chế Bên cạnh những kết quả đạt được về việc phát huy nguồn tài nguyên trí lực, tỉnh còn có những hạn chế, như: đội ngũ trí thức còn hạn chế về chất lượng, mất cân đối trong ngành nghề, lĩnh vực đào tạo, trí thức giỏi trong các ngành kinh tế, khoa học, kỹ thuật còn ít, thiếu các chuyên gia, có khả năng dự báo, tham mưu giải quyết các vấn đề phức tạp phát sinh; khả năng sáng tạo, nghiên cứu, ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất chưa cao; tham gia các hoạt động tư vấn, phản biện và giám định các chủ trương, chính sách, 12 các dự án phát triển kinh tế - xã hội của đội ngũ trí thức còn hạn chế. Còn một bộ phận trí thức trẻ bằng lòng với hiện tại, thiếu hoài bão, chưa thường xuyên rèn luyện bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống, chuyên môn nghiệp vụ, hạn chế về năng lực tư duy độc lập, khả năng giao tiếp bằng ngoại ngữ và sử dụng công nghệ thông tin. Công tác giáo dục chính trị - tư tưởng cho đội ngũ trí thức chưa được quan tâm đúng mức, chưa tổ chức được nhiều diễn đàn phù hợp để cung cấp thông tin, để trí thức bày tỏ quan điểm. Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh chưa phát huy tối đa vai trò là nơi tập hợp đoàn kết đội ngũ trí thức khoa học và công nghệ trong và ngoài tỉnh. Số lượng người có học hàm, học vị được thu hút về tỉnh không nhiều; chính sách tôn vinh, đãi ngộ, động viên khen thưởng kịp thời, xứng đáng cho trí thức có tài năng và nhiều đóng góp vào sự nghiệp phát triển trên các lĩnh vực còn hạn chế. Công tác đào tạo, bồi dưỡng vẫn chưa thực hiện theo kế hoạch, chưa gắn với công tác quy hoạch, sử dụng và bố trí cán bộ. Công tác chọn, cử cán bộ, công chức, viên chức đi đào tạo trình độ cao (trên đại học) ở nước ngoài còn ít, chưa hiệu quả. Việc nắm bắt, khảo sát đội ngũ trí thức trong nhân dân chưa thực hiện, chưa có giải pháp cụ thể để quản lý, sử dụng trí thức trong nhân dân tham gia đóng góp cho địa phương. Một số cán bộ, công chức, viên chức sau khi được cử đi đào tạo trình độ tiến sĩ, thạc sĩ có xu hướng muốn bồi hoàn lại kinh phí đào tạo để chuyển công tác ra ngoài tỉnh. Việc thu hút người có trình độ cao về tỉnh, huyện công tác chưa hiệu quả. Chưa có cơ chế hỗ trợ kinh phí để thu hút sinh viên tốt nghiệp đại học loại khá, giỏi về huyện công tác. Kinh phí đầu tư khoa học và công nghệ của tỉnh còn hạn chế, chỉ đạt khoảng 0,7% (năm 2014) so với tổng chi ngân sách của tỉnh (thấp hơn mức trung bình của cả nước, đã đạt 1,5 – 2%); hiệu quả sử dụng chưa cao, chưa có cơ chế phù hợp để huy động nguồn lực xã hội đầu tư cho khoa học và công nghệ. Đầu tư, đổi mới công nghệ còn hạn chế, nên năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp. Chất lượng và hiệu quả nghiên cứu của một số đề tài, dự án còn hạn chế, giá trị khoa học và giá trị thực tiễn chưa cao, khả năng mở rộng việc .
Xem thêm Rút gọn
Bạn đang xem trước 15 trang tài liệu, để xem tài liệu hoàn chỉnh vui lòng click vào nút Download ở dưới.
Số trang: 21 | Định dạng: docx | Người đăng: chipchip | Ngày: 02/07/2023
Tên tài liệu | Định dạng | |
---|---|---|
Bài thu hoạch vai trò của nguồn tài nguyên trí lực trong thực tiễn thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức của tỉnh quảng trị hiện nay | ||
Sau khi tải tài liệu, Quý khách có thể chuyển đổi file tài liệu từ PDF sang WORD miễn phí tại đây | ||
Từ khóa: |